Ca dao tục ngữ về hóa học

Ca dao tục ngữ với Hóa học

1

Dành tng nhng ngưi yêu Hóa hc

Copyright© Võ Ngc Bình, http://ngocbinh.dayhoahoc.net

Ca dao tục ngữ với Hóa học Ca dao tục ngữ với Hóa học

2

Giải thích câu ca dao:

Anh đ Anh đ Anh đ Anh đừng b ng b ng b ng bắc b c b c b c bậc làm cao c làm cao c làm cao c làm cao

Phèn chua em Phèn chua em Phèn chua em Phèn chua em đánh n đánh n đánh n đánh nước nào c c nào c c nào c c nào cũng trong ũng trong ũng trong ũng trong

Giải thích:

Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali. ở dạng tinh thể ngậm 24

phân tử H

2

O nên có công thức hoá học là K

2

SO

4

.Al

2

(SO

4

)

3

.24H

2

O. Phèn chua còn

được gọi là phèn nhôm, người ta biết phèn nhôm còn trước cả kim loại nhôm.

Phèn nhôm được điều chế từ các nguyên liệu là đất sét (có thành phần chính là

Al

2

O

3

), axit sunfuric và K

2

SO

4

.

Phèn chua không độc, có vị chát chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan rất nhiều

trong nước nóng nên rất dễ tinh chế bằng kết tinh lại trong nước.

Cũng do tạo ra kết tủa Al(OH)

3

khi khuấy phèn vào nước đã dính kết các hạt đất

nhỏ lơ lửng trong nước đục thành hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống làm trong nước.

Anh đừng bắc bậc làm cao

Phèn chua em đánh nước nào cũng trong

Phèn chua rất cần cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước trong

dùng cho tắm, giặt.

Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn gọi là minh phàn (minh

là trong sáng, phàn là phèn).

Theo y học cổ truyền thì:

Phèn chua, chua chát, lạnh lùng

Giải độc, táo thấp, sát trùng ngoài da

Dạ dày, viêm ruột, thấp tà

Dùng liều thật ít, thuốc đà rất hay

Phèn chua làm hết ngứa, sát trùng vì vậy sau khi cạo mặt xong, thợ cắt tóc

thường lấy một miếng phèn chua to xoa vào da mặt cho khách.

Phèn chua dùng để bào chế ra các thuốc chữa đau răng, đau mắt, cầm máu,

ho ra máu (các loại xuất huyết). Ca dao tục ngữ với Hóa học

3

Theo đông y, hàn the có vị ngọt mặn, tính mát dùng hạ sốt, tiêu viêm,

chữa bệnh viêm họng, viêm hạnh nhân hạch, sưng loét răng lợi. Nên có

câu cao dao sau:

Hàn the ngọt, mặn, mát thay

Tiêu viêm, hạ sốt, lại hay đau đầu

Viêm họng, viêm lợi đã lâu

Viêm hạch, viêm mắt thuốc đâu sánh bằng.

Vậy hàn the là chất gì ?

Giải thích:

Hàn the là chất natri tetraborat (còn gọi là borac) đông y gọi là bàng sa hoặc

nguyệt thạch, ở dạng tinh thể ngậm 10 phân tử H

2

O (Na

2

B

4

O

7

.10H

2

O). Tinh thể

trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, không tan trong cồn 90

0.

Trước đây người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa,

bánh phở, bánh cuốn… để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và giòn.

Ngay từ năm 1985 tổ chức thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất phụ gia cho thực

phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.

Natri tetraborat tạo thành hợp chất màu với nhiều oxit kim loại khi nóng

chảy, gọi là ngọc borac.

Trong tự nhiên, borac có ở dạng khoáng vật tinkan, còn kenit chứa

Na

2

B

4

O

7

.4H

2

O. Borac dùng để sản xuất men màu cho gốm sứ, thuỷ tinh màu và

thuỷ tinh quang học, chất làm sạch kim loại khi hàn, chất sát trùng và chất bảo

quản, chất tẩy trắng vải sợi. Hàn the còn được dùng để bào chế dược phẩm.

Theo đông y, hàn the có vị ngọt mặn, tính mát dùng hạ sốt, tiêu viêm, chữa

bệnh viêm họng, viêm hạnh nhân hạch, sưng loét răng lợi.

Hàn the ngọt, mặn, mát thay

Tiêu viêm, hạ sốt, lại hay đau đầu

Viêm họng, viêm lợi đã lâu

Viêm hạch, viêm mắt thuốc đâu sánh bằng. Ca dao tục ngữ với Hóa học

4

Tây y dùng dung dịch axit boric loãng làm nước rửa mắt, dùng natri

tetraborat để chế thuốc chữa đau răng, lợi.

Gừng và muối có nhiều công dụng nên có câu dao:

"Chua, cay, mặn, ngọt đã từng.

Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau"

Gừng và muối có những công dụng gì ? Tại sao gừng lại cay?

Giải thích:

Muối mặn - gừng cay đã thành thành biểu tượng đi vào ca dao, tục ngữ Việt

Nam. Ý nghĩa biểu hiện “cay” và “mặn” là đặc tính của gừng và muối, hai mùi vị

cần thiết và khó quên đối với con người. Cần thiết thì ai cũng biết, còn khó quên

thì hẳn phải nói vài lời.

Không phải ngẫu nhiên mà các từ có yếu tố “cay” đều có chung nét nghĩa

bất ổn, không lành (cay cú, cay cực, cay đắng, cay độc, cay nghiệt, chua cay, sâu

cay…), còn các từ có yếu tố “mặn” thì lại thể hiện sự thân thiết, gắn kết (mặn mà,

mặn mòi, mặn nồng…). Trong các vị thông thường, thì cay, đắng thuộc dương;

mặn, ngọt, chua thuộc âm. “Cay” gây ra bứt rứt, nóng nảy, “cay như hớt”, “cà

cuống chết đến đít vẫn còn cay”, quả là khó quên. “Mặn” hầu như không có tác

dụng ngay, mà âm ỉ theo thời gian “ăn mặn, khát nước” (đời cha ăn mặn, đời con

khát nước) hoặc phải rút kinh nghiệm “mặn mất ngon, giận mất khôn”, cũng

không phải dễ quên.

Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa về mặt hóa học của câu ca dao trên. Tại sao

gừng lại cay? Gừng và muối có công dụng kì diệu gì trong đời sống?

Tìm hiểu về gừng

Thành phần hoá học:.

Gừng chứa 2-3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất hydrocarbon

sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), β-farnesen (10%) và

một lượng nhỏ các hợp chất alcol monoterpenic như geraniol, linalol, borneol. Ca dao tục ngữ với Hóa học

5

Nhựa dầu chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay. Thành phần chủ yếu của

nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ lệ cao

nhất. Ngoài ra, trong tinh dầu Gừng còn chứa α-camphen, β-phelandren,

eucalyptol và các gingerol.

Công dụng chữa bệnh kỳ diệu của gừng

Ngoài là một gia vị thơm ngon, gừng còn được biết đến như là một loại thuốc

kháng sinh tự nhiên tốt cho sức khỏe mà không có bất cứ tác dụng phụ nào!

1. Gừng từ lâu được coi là một gia vị của mỗi gia đình

Vì sao chúng lại được các chị em nội trợ ưa chuộng đến thế? Có một số lý do

khiến gừng trở thành một gia vị phổ biến trong các bữa ăn. Chẳng hạn như gừng

giúp sản xuất Amylase và Protease. Đây là 2 enzyme tiêu hóa cực kỳ hữu ích cho

cơ thể. Chúng giúp phá vỡ tinh bột, sau đó còn giúp phá vỡ các protein tạo thành

các axit amin nhỏ hơn.

Ngoài ra, gừng có công dụng ngăn ngừa các vết loét. Nó cũng là liều thuốc giúp

xử lý tình trạng táo bón và tiêu chảy trong khi cũng làm giảm triệu chứng buồn

nôn. Đồng thời chúng còn ức chế vi khuẩn độc hại, thúc đẩy sự hoạt động của các

vi khuẩn thân thiện có lợi cho đường tiêu hóa của con người.

2. Gừng có thành phần gingerol – một chất chống oxy hóa mạnh

Chất gingerol có trong gừng giúp giảm buồn nôn bằng cách chặn các thụ thể

serotonin trong dạ dày (các thụ thể gây buồn nôn).

Những nghiên cứu gần đây còn đang chứng minh chất chiết xuất từ bột gừng giúp

ích tuyệt vời cho bệnh nhân ung thư đang hóa trị liệu. Được biết các kết quả của

chúng đã chứng minh gừng làm giảm đáng kể triệu chứng buồn nôn.

3. Gừng có thành phần hữu ích như Tecpen và Oleoresin

Đây là 2 thành phần có tính sát trùng, chống viêm, giãn nở mạch máu, lưu thông

và giảm táo bón. Các thành phần trên của gừng được các thầy thuốc coi là một

loại thuốc kháng sinh tự nhiên mà không có tác dụng phụ. Nó giúp ức chế enzyme

trong máu và dạ dày một cách tự nhiên. Ca dao tục ngữ với Hóa học

6

Đối với bệnh nhân có vấn đề tim mạch, một lượng thường dùng hàng ngày của

gừng sẽ làm giãn các mạch, giảm đau và chống viêm.

4. Gừng giúp sản xuất số lượng lớn chất chống oxy hóa

Các chất chống oxy hóa có trong gừng giúp tăng cường cơ tim, giảm cholesterol

trong máu.

5. Gừng có tác dụng chống viêm cao

Bệnh nhân bị viêm khớp và loãng xương có thể dùng gừng để giúp giảm đau và

khó chịu. Nó cũng được coi là liều thuốc giúp điều tiết lượng đường trong máu

cho các bệnh nhân tiểu đường.

Một biện pháp khác cũng được biết đến là nó có thể hỗ trợ điều trị các chứng cảm

lạnh và giảm ho, từ đó chữa trị bệnh viêm họng hiệu quả.

Trong ăn uống gừng có nhiều công dụng như:

- Chống lạnh cho thức ăn có tính lạnh như bầu bí, các loại cải, các món thuỷ sản (ốc,

cua, cá), gia cầm ( ở miền Nam, vịt luộc phải chấm nước mắm gừng), gia súc như thịt

trâu, thịt bò… ốc hấp gừng là món đặc sản.

- Làm dậy mùi thơm ở bánh mứt, chè, rượu, bia…

- Chống nhiễm vi sinh vật (dưa, kim chi…)

Do gừng có nhiều công dụng nên có câu dao:

"Chua, cay, mặn, ngọt đã từng.

Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau"

Ca dao tục ngữ với Hóa học

7

Tìm hiểu về muối ăn

Ở các nước thuộc Liên Xô (trước đây), người dân địa phương đón khách quý bằng

bánh mì và muối. Còn ở Việt Nam, muối là gia vị không thể thiếu trong mỗi bữa

ăn gia đình.

Các thiếu nữ Ukraina mặc trang phục truyền thống tặng bánh mỳ và muối

Muối ăn có công thức hóa học là NaCl. Có nhiều trong nước biển, ngoài ra còn có

trong: nước mắt, máu, nước tiểu,...

Muối ăn rất cần thiết cho cơ thể chúng ta. Mỗi ngày, cơ thể chúng ta cần từ 10

gam – 15 gam muối. Trong cơ thể, muối chiếm nồng độ 0,9% so với nước của cơ

thể. Hồng cầu chỉ tồn tại ở nồng độ muối này. Thấp hơn thì hồng cầu bị vỡ, cao

hơn thì bị nó bị teo. Do đó, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng con người.

Người bị bệnh cao huyết áp cần ăn nhạt muối. Người mắc bệnh thận ăn muối sẽ bị

phù,...

Trong đời sống, quần áo vải màu nếu ngâm trong nước muối trước khi giặt sẽ hạn

chế sự phai màu của quần áo. Đó là do muối ăn làm giảm bớt độ hòa tan của thuốc

nhuộm trong nước. Ngoài ra, muối phân ly ra ion dương và ion âm có thể làm tăng

sự kết hợp của thuốc nhuộm với với sợi vải do đó làm cho thuốc nhuộm vải khó bị

trôi và vải ít bị phai khi giặt. Ca dao tục ngữ với Hóa học

8

Muối dùng để ướp cá để tránh bị ươn, hư do trong tế bào vi sinh vật, vi khuần

chứa một lượng muối rất nhỏ. Khi ướp cá trong muối có nồng độ rất cao làm cho

nước trong tế bào vi sinh vật, vi khuẩn bị thẩm thấu ra ngoài gây ức chế vi khuẩn

hoạt động.

Vì thế mà có câu nói “Cá không ăn muối cá ươn,…”

* Thẩm thấu là sự vận chuyển của nước ngang qua một màng bán thấm từ phía có

“nồng độ nước” cao hơn đến phía có “nồng độ nước” thấp hợn.

Miếng trầu mang rất nhiều ý nghĩa:

• Miếng trầu dùng trong giao tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện:

"Tiện đây ăn một miếng trầu

Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là "

• Miếng trầu dùng để trao duyên:

"Trầu này trầu quế, trầu hoa

Trầu Loan, trầu Phượng, trầu ta, trầu mình"

• Miếng trầu dùng để trách người bạn trai chậm chân:

"Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng

Như là cá chậu, chim lồng biết sao "

• Miếng trầu dùng để khuyên nhủ lứa đôi

"Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi"

• Miếng trầu dùng nói khi giúp đỡ việc cưới xin:

"Giúp cho quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau"

Ca dao tục ngữ với Hóa học

9

• Miếng trầu dùng để trang điểm:

"Trầu này trầu tính, trầu tình

Ăn vào thêm đỏ môi mình, môi ta"

• Miếng trầu dùng để đo thời gian:

"Láng giềng đã đỏ đèn đâu

Chờ em ăn giập bã trầu em sang

Đôi ta cùng ở một làng

Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh"

Hoặc là:

"Ngồi chơi mới giập bã trầu

Mong anh nán lại, đôi câu giãi bày"

Ông cha ta đã dùng miếng trầu để diễn đạt các cung bậc của tình cảm.

Cây cau, giàn giầu (trầu) đã đi vào văn thơ ca.

Thơ Nguyễn Bính:

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không

(∗)

thôn nào ? "

Và:

"Cái ngày em đi lấy chồng

Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn"

Dân ca quan họ Bắc Ninh"

"Cau non sánh với trầu vàng

Con non kết bạn, trầu vàng kết duyên"

Hay:

"Tương tư môi đỏ dạ sầu

Chưa ăn mà đã thấy say miếng trầu"

Giầu không là tên cây cho lá để ăn trầu (ăn giầu) Ca dao tục ngữ với Hóa học

10

Và:

"Say nhau quan họ càng say

Nâng niu một miếng trầu này mời nhau

Đã thương đến tận vườn cau

Đã yêu xin gửi miếng trầu làm tin"

Và lúc giã bạn:

"Miếng trầu cánh phượng hồng môi

Dạt dào câu hát người ơi đừng về"

Văn hoá trầu cau có ý nghĩa hoá học và nhân văn như thế nào ?

Giải thích:

ruyền thuyết dân gian "trầu cau"

được lưu truyền từ đời Văn Lang đến

nay. Ngày nay còn rất ít người ăn trầu nhưng

miếng trầu đã đi vào đời sống văn hoá, tình cảm

và phong tục của dân tộc ta hàng mấy ngàn năm

văn hiến. Văn hoá "Trầu cau" mang tính độc đáo

của người Việt Nam. Tích truyện "Trầu cau' đã

được điện ảnh Việt Nam dựng thành phim

truyện hấp dẫn, còn ca khúc về tích "trầu cau" đã

có từ trước cách mạng tháng 8 (1945)

• Ý nghĩa hoá học :

Trước đây người ta thường mời nhau ăn miếng trầu cho vui, cho ấm người,

cho thơm miệng... có đúng ăn trầu sẽ làm cho vui, ấm và sạch miệng hay không ?

Lá trầu có chứa từ 1,8 - 2,4% tinh dầu, chủ yếu là chavibetol và chavicol

cùng một số phenolic khác. Nước ép lá trầu có tác dụng tăng áp, giảm mạch ngoại

vi và tính kháng sinh rất mạnh. Đông y dùng trầu đánh gió, chữa cảm cúm, bỏng,

chữa vết thương.

T Ca dao tục ngữ với Hóa học

11

Trong hạt cau (y học cổ truyền gọi là - đinh lang) có khoảng 18% tanin,

14% chất dầu, 2% muối khoáng và các hợp chất ancaloit, đặc biệt là arecolin

(C

6

H

13

NO

2

) chiếm 0,5%. Chính arecolin có tác dụng làm tiết nước bọt, làm co

đồng tử mắt, kích thích thần kinh phó giao cảm.

Trầu cau không thể thiếu vôi, không có vôi miếng trầu không thể chuyển

sang màu đỏ. Vôi là chất kiềm, khi tác dụng với arecolin, chất này có tính độc và

chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn.

Người ta thường thêm vào miếng trầu một lát vỏ rễ cây chay. Vỏ có tác

dụng tăng thêm tanin cho miếng trầu. Nhai miếng trầu khoảng 15 - 20 phút, bắt

đầu "giập bã trầu", ở nhiệt độ cơ thể 37

0

C, các phản ứng hoá học, phản ứng sinh

màu giữa các phenolic, arecolin, arecaidin, tanin và các chất khác trong môi

trường kiềm đã xảy ra. Chính các phản ứng này tạo cho người ăn trầu cảm giác

say, hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm,

diệt khuẩn, làm sạch miệng, làm chặt chân răng. Ăn trầu chính là một cách trang

điểm của người phụ nữ trước đây. Miếng trầu làm cho đôi má thêm hồng, đôi môi

thêm thắm, cho lòng thêm say.

• • • • Ý nghĩa nhân văn:

Lá trầu, quả cau là hai thứ không thể thiếu trong các đồ tế lễ, thờ cúng thần

thánh, tổ tiên. Người ta thường nói "hương, hoa, phù, tửu, bạc lễ chi nghi" (hương,

hoa, trầu, rươu, bạc lễ là nghi thức).

Miếng trầu có mặt trong mọi lễ nghi, cưới hỏi, giỗ chạp, tang gia... đã trở

thành phong tục, truyền thống của người Việt Nam. Ngày nay tuy không ăn trầu

nhưng trong các lễ nghi người ta vẫn giữ phong tục truyền thống nghĩa là vẫn có

trầu, cau. Lễ dạm hỏi còn gọi là lễ "bỏ cơi trầu".

Ca dao tục ngữ với Hóa học

12

Ngày xưa, các cụ có câu: “Nam vô tửu như kỳ vô phong” đã nói lên tác

dụng hưng phấn của rượu. Rượu ngâm thuốc gọi là rượu thuốc dùng để

chữa bệnh và tẩm bổ cơ thể.

Cái nguy hiểm là ai cũng biết uống nhiều rượu là có hại nhưng hay bị “quá

chén” và dễ nghiện khi đã nghiện thì rất khó từ bỏ . Đối với một số người nó như

tình yêu. Nhà thơ Tản Đà đã viết:

“Say sưa nghĩ cũng hư đời

Hư thì hư thật, say thời (thì) vẫn say”

Trong các cuộc vui chúng ta nên “tửu bất khả ép” vì ngạn ngữ Nga có câu:

“Khi say biển chỉ đến đầu gối” mà nghiện thì “Trời chỉ bé bằng vung”. Lý Bạch

một nhà thơ lớn đời Đường ở Trung Quốc, đã quá say khi làm thơ mà nhảy xuống

sông vớt ánh trăng vàng.

Văn hoá rượu có ý nghĩa hoá học và nhân văn như thế nào? Vì sao rượu

giả có thể làm chết người?

Giải thích:

Rượu uống tên hoá học là etanol có công

thức C

2

H

5

OH. Rượu trắng là dung dịch của

C

2

H

5

OH trong nước với nồng độ khác

nhau. Độ rượu là phần trăm thể tích của

rượu trong dung dịch nước. Rượu 40

0

loại rượu mà 100 ml dung dịch rượu này

thì có 40ml rượu và 60ml nước. Rượu có

nồng độ cao khoảng 80

0

→ 90 gọi là cồn.

Về hoá học, rượu là dẫn xuất của hidrocacbon trong đó một hoặc nhiều

nguyên tử hiđro được thay thế bằng nhóm hidroxyl (OH). Đó là khái niệm chung

về rượu, nhưng chỉ có etanol mới uống được. Trên thế giới, chẳng dân tộc nào

không dùng rượu, có khác chăng chỉ là khẩu vị từng vùng. Ca dao tục ngữ với Hóa học

13

Rượu là con dao hai lưỡi, nếu dùng ít và hợp lí thì có lợi còn khi lạm dụng

dẫn đến nghiện lại là kẻ thù nguy hiểm.

Về mặt y học, rượu có tính gây ngủ và an thần, ức chế thần kinh, giảm đau,

nếu uống ít sẽ tăng tiết dịch vị, tăng hấp thụ, tăng nhu động ruột, ăn ngon miệng... Vì

vậy sẽ là bất công và thiếu khách quan nếu chỉ hoàn toàn lên án rượu, coi rượu là kẻ

thù nguy hiểm như ma tuý và thuốc lá.

Ngày xưa, các cụ có câu: “Nam vô tửu như kỳ vô phong” đã nói lên tác

dụng hưng phấn của rượu. Rượu ngâm thuốc gọi là rượu thuốc dùng để chữa bệnh

và tẩm bổ cơ thể.

Cái nguy hiểm là ai cũng biết uống nhiều rượu là có hại nhưng hay bị “quá

chén” và dễ nghiện khi đã nghiện thì rất khó từ bỏ . Đối với một số người nó như

tình yêu. Nhà thơ Tản Đà đã viết:

“Say sưa nghĩ cũng hư đời

Hư thì hư thật, say thời (thì) vẫn say”

Trong các cuộc vui chúng ta nên “tửu bất khả ép” vì ngạn ngữ Nga có câu:

“Khi say biển chỉ đến đầu gối” mà nghiện thì “Trời chỉ bé bằng vung”. Lý Bạch

một nhà thơ lớn đời Đường ở Trung Quốc, đã quá say khi làm thơ mà nhảy xuống

sông vớt ánh trăng vàng.

Tổ chức y tế Thế giới kêu gọi mọi người bỏ rượu vì quá nhiều tác hại: hàng

năm tiêu tốn 50 tỷ đô la ở Mỹ; 96 tỷ mác ở Đức; 70% tai nạn xe cộ; tỷ lệ nghiện

và chết cao (26% do ngộ độc cấp bởi các tạp chất độc hại như anđêhit, metanol…

có trong rượu).

Thế nhưng, một số nước như Liên Xô (cũ), Cô - oet đã cấm rượu mà không

thành công. Chúng ta không khuyến khích uống rượu, nhưng rượu vẫn tồn tại trong

cuộc sống hàng ngày. Vì vậy cũng nên tìm hiểu về văn hoá rượu (Drrinking Culture)

Rượu có 2 loại: Loại chế từ hoa quả và loại chế từ ngũ cốc.

• Rượu chế từ hoa quả, trước tiên phải kể đến rượu nho (vang nho). Có

vang trắng, vang đỏ (cho phụ nữ) vang Bordeaux, Alsace (Pháp), vang Alazan

(Georgie), vang Mônđavi, vang Bungari v.v... Ca dao tục ngữ với Hóa học

14

Loại vang sủi bọt, sâm banh mang địa danh Champagne (Pháp) đặc biệt

vùng Reims, cách thủ đô Pari (Pháp) 140 km. Hãng Piper - Heidseik ở vùng này,

thành lập từ 200 năm trước, có hầm rượu dài tới 16 km, thường xuyên chứa được

15 triệu chai và một bảo tàng dưới lòng đất chuyên lưu giữ các loại sâm banh của

hầu hết các vùng trên Trái Đất.

Cầu kì hơn là rượu Cognac. Cogac là một địa danh cách Pari 600 km. Rượu

Cognac đắt vì được làm từ loại nho đặc biệt do được chọn giống kĩ. Qua quá trình

lên men chưng cất, ủ trong các thùng gỗ sồi đặc sẳn (loại sồi Limousin hoặc Troncais

do nhà nước quản lí) với thời gian khá dài từ 3 đến 40 năm.

Nếu ủ trong khoảng 3 - 5, rượu có nhãn V

*

S

*

; nếu ủ trên 5 năm: nhãn

VSOP; từ 25 - 35 năm: nhãn XO. Loại này được 4 hãng sản xuất: Hennesy,

Martel, Remy Martin, hay Martel có giá từ vài trăm đến vài ngàn đô la. Có loại

Cognac dành cho vua chúa hay tỉ phú - nhãn XO trị giá 19000 franc Pháp, hoặc

4000 USD (40 triệu đồng Việt Nam).

ở nước ta do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng không có các loại nho ngon nên

dùng vang táo, mơ, mận, dâu... cũng theo nguyên tắc lên men, chưng cất nói trên

và chỉ ủ trong thời gian ngắn. ở Hà Nội có làng rượu Mơ nổi tiếng, đã tồn tại cách

đây 6, 7 trăm năm ở vùng Bạch mai - Hoàng Mai - Tương mai nay là xã Hoàng

Văn Thụ, Trương Định thuộc quận Hai Bà Trưng. Đó là rượu ngon nhất Hà

Thành, “bất ẩm bất tri kỳ vị”.

Trong Tam Quốc, Tào Tháo và Lưu Bị đã uống rượu mơ mỗi khi bàn luận

anh hùng. Vua Tấn khi đấu cờ với Chung Vô Diệm cũng dùng rượu mơ.

• Rượu chế từ ngũ cộc (tinh bột); trước hết phải kể đến rượu Whissky, tiêu

biểu và thường gặp là Whissky Chivas Regal ở vùng Scotland phía Bắc nước Anh.

Whisky loaị này được làm từ mạch nha với 3 loại thuần chủng: Glenlivet, Long

mann và Glen Grant do một thợ chuyên nghiệp pha chế. Rượu được ủ trong thùng

gỗ sồi ít nhất 12 năm. Rượu được sản xuất từ năm 1801, do hãng Chivas and

Glenlivet Group thành lập từ năm 1786. Với ngót 2 thế kỉ kinh nghiệm, hãng đã Ca dao tục ngữ với Hóa học

15

cho ra thị trường một loại rượu ngon có tiếng, khoảng 43

0

, mỗi năm 3 triệu thùng,

mỗi thùng 12 chai 750 ml, ở 150 nước trên thế giới.

Sau này có hãng Seagram Spiret to hơn, bao trùm cả Whisky Bourbon,

Canda và Bắc Mỹ, còn được gọi là “ông hoàng Whissky” (Prince of Whisky)

Ở Nga, Ba Lan, Đông Âu có Vodka cũng là rượu trắng, ngon nấu từ ngũ cốc. ở

Cu ba có rượu Rhum từ mía, ở Nhật có rượu Sakê từ gạo, ở Trung Quốc có rượu Mao

Đài, chế từ cao lương, chưng cất và ủ trong 6 năm tại một địa danh tên là mao Đài

cách Bắc Kinh 700 km. Rượu Mao Đài đã được huy chương vàng ở hội chợ Panama

do Mỹ tổ chức năm 1913.

Ở Việt Nam có Lúa Mới, rượu đế (ở miền Nam). Đó đều là các loại rượu

chế từ ngũ cốc, có nồng độ cao từ 40 - 60

0

. ở miền Bắc ngày xưa có rượu Tăm,

rượu Ngang. Rượu Tăm là loại rượu mà khi lắc mạnh chai cho tăm rượu bốc mạnh

lên như reo, rồi để chai đứng yên, thì tăm lặn ngay lập tức. Cất 10 lít rượu thường

mới cất được một chai rượu tăm, vì thế nên mới có câu : “Giúp em một thúng xôi

vò, một con lợn béo một vò rượu tăm”. Còn rượu Ngang là thứ rượu trắng mà

người bán phải đựng vào bong bóng, thắt ngang lưng để che mắt các nhà thi hành

pháp luật, vì ngày xưa cấm nấu rượu lậu.

Ngày nay, trong các quầy rượu ta còn gặp một thứ gọi là liquơ (liqueur).

Chúng cũng được chế từ ngũ cốc (gạo, ngô, khoai, sắn...) rồi qua chưng cất công

nghiệp thành rượu nặng (trên 90

0

) sau tinh chế loại bỏ bớt chất độc (anđehit,

metanol; để thu được “cồn thực phẩm” có độ cồn thấp hơn, khoảng 40 - 60

0

. Các

cơ sở sản xuất rượu dùng loại cồn thực phẩm này pha thêm đường, màu thực

phẩm và tinh dầu chanh, cam, dâu, táo...thành các loại liquơ nhẹ, ngọt mà dễ uống

mà ta vẫn quen gọi là rượu mùi (rượu màu).

Ở nước ta, trong phong tục truyền thống, thờ cúng tổ tiên, ma chay, cưới hỏi đều

phải có trầu và rượu, đó là những thứ không thể thiếu được, nhất là khi cưới hỏi:

“Cao tay nâng chén rượu hồng

Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay”

Ca dao tục ngữ với Hóa học

16

Vì sao rượu giả có thể làm chết người?

Uống rượu giả có thể bị ngộ độc, có trường hợp mù cả

mắt, thậm chí cả tử vong. Những người làm rượu giả không

phải đem rượu trắng trộn thêm nước vì làm như vậy sẽ biết

ngay bởi nó nhạt. Thường bọn chúng dùng rượu metylic để

thay một phần rượu etylic. Loại rượu giả này rất độc.

Rượu etylic và rượu metylic có cùng họ nhưng tính

chất của chúng khác nhau. Rượu etylic là chất lỏng trong suốt, mùi thơm dễ chịu,

không độc. Rượu metylic có phân tử khối bé hơn, nó chính là chất lỏng trong suốt

rất độc, nó có nhiều ứng dụng, nó có thể thay xăng làm nhiên liệu nhưng không

dùng để pha đồ uống.

Rượu metylic rất độc đối với cơ thể người. Nó tác động vào hệ thần kinh và

nhãn cầu, làm rối loạn chức năng đồng hoá của cơ thể gây nên sự nhiễm độc axit.

Sau khi uống khoảng 8 giờ bắt đầu triệu chứng nhiễm độc axit, hôn mê, đau đầu,

bất tỉnh, lo sợ, co giật, mờ mắt, nôn mửa, thị lực giảm nhanh, trường hợp nặng có

thể bị mù hẳn. Nghiêm trọng hơn là mạch đập nhanh và yếu, hô hấp khó khăn cuối

cùng dẫn đến tử vong.

Ca dao tục ngữ với Hóa học

17

Tục ngữ Việt Nam có câu:

“Nước chảy đá mòn”

Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?

Giải thích:

Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO

3

nên trong nước sẽ tồn tại phương

trình điện ly:

CaCO

3

↔ Ca

2+

+ CO

3

2-

Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca

2+

, CO

3

2-

, theo nguyên lý chuyển dịch

cân bằng hoá học thì cân bằng(*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm nồng

độ Ca

2+

, CO

3

2-

, (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.

Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác: Vì trong nước có lẫn khí

CO

2

nên sẽ xảy ra phản ứng:

CaCO

3

+ CO

2

+ H

2

O → Ca(HCO)

2

Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO

3

)

2

trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.

Ca dao tục ngữ với Hóa học

18

Cao dao Việt Nam có câu:

“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,

Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”

Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?

Giải thích::

Do hiện tượng phóng điện xảy ra giữa các đám mây tích điện trái dấu nằm cạnh

nhau (sấm) và giữa đám mây tích điện dương với vùng đất cao tích điện am khi có

gió to (không khí chuyển động mạnh cọ xát với mặt đất) gọi là xét. Trong điều

kiện đó, N

2

và O

2

của không khí tác dụng với nhau tạo ra NO và sau đó là NO

2

.

N

2

+ O

2

2NO

2NO + O

2

→ 2NO

2

Nitơ đioxit phản ứng với nước mưa tạo ra axit HNO

3

và nitơ oxit

3NO

2

+ H

2

O → 2HNO

3

+ NO

Axit nitric rơi xuống mặt đất phản ứng với các chất có trong đất như: đá vôi

(CaCO

3

), magiezit (MgCO

3

), đôlômit (MgCO

3

.CaCO

3

),…tạo ra muối nitrat là

những phân đạm cung cấp ion

3

NO

làm cho cây xanh tốt:

2HNO

3

+ CaCO

3

→ Ca(NO

3

)

2

+ CO

2

+ H

2

O

4HNO

3

+ MgCO

3

.CaCO

3

→ Ca(NO

3

)

2

+ Mg(NO

3

)

2

+ 2CO

2

+ H

2

O

Sấm sét Ca dao tục ngữ với Hóa học

19

Khí CO

2

do các phản ứng tạo ra và do sự thối rữa của xác động thực vật ẩm ướt

dưới tác dụng của vi khuẩn thoát ra cũng làm tăng quá trình diệp lục hóa (biến

CO

2

và hơi nước của lá và thân non thành chất hữu cơ, nhờ năng lượng của ánh

sáng mặt trời) của cây cối. Ngoài ra axit HNO

3

tạo ra cũng liên kết với các phân tử

khí NH

3

(sinh ra do sự phân hủy của nước tiểu, phân chuồng,…dưới tác dụng của

vi khuẩn) tạo muối amoni. Các ion NH

4

+

cũng là nguồn phân đạm mà cây có thể

đồng hóa được.

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6−7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày

nay, người ta đã điều chế Ure [(NH

2

)

2

CO] từ không khí để chủ động bón cho cây

trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ

của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng lớn.

Thuốc nổ đen được người Trung Quốc và Việt Nam sử dụng từ nhiều

thế kỉ trước khi người Châu Âu biết đến thuốc nổ. Hãy nếu thành

phân, phản ứng hóa học chủ yếu và tác dụng của thuốc nổ đen. Giải

thích ý nghĩa của công thức kinh nghiệm

“Nhứt đồng thán, bán đồng sinh, lục đồng diêm”

Giải thích:

Thuốc nổ đen là hỗn hợp nghiền mịn, trộn đều: diêm tiêu KNO

3

, than gỗ C và

lưu huỳnh S theo tỷ lệ khối lượng;

KNO

3

S C

Hỗn hợp thuốc

nổ

Khối lượng gam 202 32 36 270

% 74,82% 11,85% 13,33% 100%

Phản ứng chủ yếu:

2KNO

3

+ S + 3C → K

2

S + N

2

 + 3CO

2



Kết quả là thuốc nổ đen cháy tạo ra một thể tích khí lơn gấp khoảng 2000 lần thể tích

thuốc nổ ban đầu. Nó sẽ cháy yên lặng trong bình hở và sẽ nổ tung trong bình kín. Ca dao tục ngữ với Hóa học

20

Công thức kinh nghiệm thuốc nổ đen: nhất đồng thán (một phần than), bán đồng

sinh (nửa phần lưu huỳnh), lục đồng diêm (sáu phần diêm) gần đúng với công

thức thuốc nổ đen hiện dùng:

15% C + 10% S + 75% KNO

3

Dân gian có câu: “Nhai kĩ no lâu, cày sâu lúa tốt” Vì sao nhai kĩ lại no

lâu? Khi ăn cơm nếu nhai kĩ ta sẽ thấy có vị ngọt trong miệng? Ăn thực

phẩm bằng gạo nếp thì no lâu hơn gạo thường?

Giải đáp:

Tiêu hóa là quá trình biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp thành dạng đơn giản. Cơm

có thành phần chính là tinh bột, thực chất đó là một polisaccarit. Khi ta ăn cơm,

đầu tiên tinh bột sẽ bị thủy phân một phần bởi enzim trong tuyến nước bọt. Sau đó

chúng lại tiếp tục bị thủy phân khi đi vào trong dạ dày và ruột. Vì vậy nếu ta nhai

càng lâu thì quá trình thủy phân bởi enzim sẽ triệt để hơn, vì vậy ta cảm thấy no

lâu hơn.

Khi ăn cơm nếu ta nhai kĩ ta sẽ thấy có vị ngọt trong miệng

Ngay ở miệng, nhờ enzim amilaza có trong nước bọt, tinh bột đã bị thủy phân chút

ít thành mantozơ (vì thế nhai kĩ sẽ thấy ngọt). Ở dạ dày mặc dù môi trường axit

khá mạnh (pH = 1,5 – 2,5) tinh bột bị thủy phân không đáng kể vì men amilaza

không hoạt động trong môi trường axit. Ở ruột, nhờ các enzim amilaza, mantaza

của dịch tụy…tinh bột bị thủy phân hoàn toàn thành glucozơ rồi ngấm qua thành

ruột vào máu.

Ăn thực phẩm làm bằng gạo nếp thì thường no lâu hơn thực phẩm bằng gạo

thông thường.

Do tinh bột của gạo nếp có mạch phân tử phân nhánh, không dễ được cơ thể tiêu

hóa. Cho nên không nên ăn quá nhiều thực phẩm bằng gạo nếp một lúc.

Ca dao tục ngữ với Hóa học

21

Dân gian có câu:

“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”

Cây nêu, tràng pháo, bánh trưng xanh”

Vì sao thịt mỡ, dưa hành thường được ăn cùng với nhau? Vì sao dưa chua nấu với

mỡ, ninh nhừ mới ngon?

Giải đáp:

Mỡ là este của glixerol với các axit béo (RCOO)

3

C

3

H

5

. Dưa chua cung cấp H

+

làm

xúc tác cho việc thủy phân este do đó có lợi cho sự tiêu hóa mỡ.

Vì sao dưa chua nấu với mỡ, ninh nhừ mới ngon?

Dưa chua cung cấp môi trường H

+

xúc tác cho phản ứng thủy phân chất béo tạo ra

glixerol là chất có vị ngọt.

0

H , t

3 3 5 2 3 5 3

(RCOO) C H + 3H O C H (OH) + 3RCOOH

+

 →

0

H , t

3 3 5 2 3 5 3

(RCOO) C H + 3H O C H (OH) + 3RCOOH

+

 →

Cũng trong điều kiên đó các chất gluxit, protit có trong dưa cũng bị thủy phân tạo

ra các chất đường và các aminoaxit đều có vị ngọt. Như vậy, ta có được canh dưa

không chua gắt mà chua ngọt, lượng mỡ bị giảm đi làm cho canh không quá béo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Trường , 385 Câu hỏi và đáp về Hóa học với đời sống. Nxb giáo dục

2. Lê Thị Kim Thoa, Bài tập hóa học thực tiễn về ẩm thực, Tạp chí hóa học và ứng

dụng (Số 1, 2009).

3. Google, http://google.com.vn