Giáo án Vợ Nhặt ( Kim Lân ) - Ngữ văn lớp 12
Page PAGE 1 of NUMPAGES 28
Hoàng Giang Quỳnh Anh QH 2009 S Ngữ Văn
Tiết dạy: 03 tiết
Lớp dạy: 12 nâng cao
Ngày soạn giáo án: 26/10/2012
Người soạn giáo án: Hoàng Giang Quỳnh AnhVỢ NHẶT
Kim Lân -
A. Yêu cầu cần đạt:
Giúp học sinh
1. Về kiến thức:
Bậc 1: Nắm được những nét chính về con người, quan điểm nghệ thuật, các đề tài chính trong phong cách nghệ thuật của Kim Lân
Bậc 2: - Hiểu và phân tích tình cảm thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.Cảm nhận được niềm khát khao tổ ấm gia đình, niềm tin vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ ngay trên bờ vực của cái chết
- Phân tích được những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trong việc tạo dựng tình huống truyện, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại
Bậc 3: So sánh với tác phẩm đã được học khác của Kim Lân (Làng) để nắm được phong cách nghệ thuật của Kim Lân.
2. Về kĩ năng:
- Rèn luyện được kĩ năng đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại và đặc trưng phong cách của nhà văn
- Rèn luyện kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự
3. Về thái độ:
- Nhận thức được nạn đói khủng khiếp năm 1945 – đám tang lớn của dân tộc và bản chất tốt đẹp, sức sống kì diệu của người nông dân dù bị đẩy đến tận cùng vẫn luôn hướng về sự sống
- Bồi dưỡng lòng yêu thương, đồng cảm với nhân vật trong tác phẩm của Kim Lân nói riêng và thân phận của những người nông dân Việt Nam trong giai đoạn này nói chung.
B. Chuẩn bị:
- Giáo viên: + SGK, giáo án, định hướng cho HS phong cách của Kim Lân nói chung, hướng dẫn HS chia bố cục của văn bản, các hình ảnh cần lưu ý trong bức tranh nạn đói năm 1945, những điều cần lưu ý trong khi phân tích, tìm hiểu 3 nhân vật: bà cụ Tứ, anh Tràng, người vợ nhặt;...
+Đọc “Kim Lân nói về Vợ nhặt”, Một câu chuyện khác thường, một tình cảm nhân hậu đối với những người cùng khổ (GSTS. Trần Đình Sử), Giảng văn văn học Việt nam (Đỗ Kim Hồi, NXB Giáo Dục, 1997)...
+Chia HS thành 3 nhóm để có sự chuẩn bị nhóm trước
+Trong cả năm học, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, từ 4-6 người, mỗi nhóm sẽ lần lượt phụ trách tìm hiểu 1 phần trong các bài học→ nhóm tiếp theo được phân công tìm hiểu, trình bày về bức tranh nạn đói năm 1945
- Học sinh: + Tìm hiểu về tác giả Kim Lân: thân thế sự nghiệp, tác phẩm chính, quan điểm nghệ thuật.
+ Tìm hiểu về tác phẩm Vợ nhặt: đọc toàn bộ truyện, tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, những tên trước đó,..
+ Soạn bài theo hướng dẫn SGK
+ Tóm tắt tác phẩm
+ Mỗi học sinh tự tìm hiểu trước về 3 nhân vật: bà cụ Tứ, anh Tràng, người vợ nhặt theo định hướng của GV
C. Phương pháp, phương tiện dạy học:
1. Phương pháp dạy học:
- Sử dụng tích hợp các phương pháp đọc sáng tạo, gợi tìm, nghiên cứu, tái tạo, diễn giảng, đàm thoại,… trong bài giảng, để học sinh có thể tích cực, chủ động tham gia vào bài học.
2. Phương tiện dạy học:
Bảng, giáo án, SGK...
D. Tiến trình dạy học:
1. Ổn định và tổ chức lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Hình thức: câu hỏi vấn đáp cho một, hai học sinh hoặc 1 nhóm học sinh; có thể làm bài 15 phút.
- Câu hỏi: Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, từ đó nêu giá trị nhân đạo của tác phẩm.
3. Hoạt động dạy học:
Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinhKiến thức cần đạtGV: Trên cơ sở phần chuẩn bị bài ở nhà, trình bày những hiểu biết của em về tác giả Kim Lân?
- Hướng dẫn HS gạch những thông tin được trình bày trong SGK, lưu ý phong cách truyện ngắn Kim Lân
-GV: Xuất xứ của truyện ngắn Vợ nhặt?
-GV: Gọi 1-2 học sinh tóm tắt tác phẩmTrả lời về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Kim Lân theo những kiến thức trong SGK
HS tóm tắt tác phẩm bằng giọng văn của mình, đảm bảo cốt truyện, tính lôgicTìm hiểu chung:
Tác giả:
Cuộc đời: tên khai sinh, năm sinh năm mất, quên quán,...→ Theo SGK
Sự nghiệp văn học:
Các tác phẩm chính (SGK)
Phong cách truyện ngắn (SGK)
Tác phẩm:
Xuât xứ: in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Tóm tắt truyện: ( theo sách giáo viên)
GV: Nhan đề thường có sự định hướng cho người đọc tiếp cận tác phẩm. Nhan đề Vợ nhặt gợi mở cho người đọc điều gì?
GV: Tình huống truyện là gì? Một trong những đặc sắc làm nên thành công của Vợ nhặt là tình huống truyện độc đáo. Em hãy phân tích sự độc đáo và ý nghĩa của tình huống đó. Chú ý tới thái độ của những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm: người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ,...B. Đọc – hiểu văn bản
I. Tình huống truyện và nhan đề tác phẩm
Nhan đề:
Đã gợi mở về thân phận rẻ rúng của con người:
+Nhặt: “là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ..” (Kim Lân trong một bài phỏng vẫn), thường kết hợp với đồ vật. Đây là động từ.
+Vợ: là thiêng liêng – lấy vợ là việc lớn của đời người
Ấy vậy mà cái thiêng liêng lại trở thành rẻ rúng đến thế thì quả thực, thân phận con người thật nhỏ nhoi, tội nghiệp (giá trị hiện thực)
→ Hé mở giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: cảm thương cho số phận con người.
Tình huống truyện: độc đáo
2.1. Lý thuyết tình huống: (theo TS Chu Văn Sơn)
- Phát huy sở trường tư duy bằng hình ảnh hình tượng, có người sáng tác đã coi tình huống là "cái tình thế nảy ra truyện", là "lát cắt" của đời sống mà qua đó có thể thấy được cả trăm năm của đời thảo mộc, là "một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc", "khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm chí cả một đời nhân loại" (Nguyễn Minh Châu). Định nghĩa như thế là xoáy vào nghịch lí thú vị sau đây của tình huống : qua cái ngắn mà thấy được cái dài, qua một khoảnh khắc ngắn ngủi mà thấy được diện mạo toàn thể. Nghĩa là tính "đặc biệt điển hình" của cái tình thế cuộc sống chứa đựng trong đó. Đây là một tố chất thẩm mĩ tiềm ẩn của tình huống.
- - Về bản thể: tình huống truyện, xét đến cùng, là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm theo lối lạ hoá.
Nói "lạ hoá" có nghĩa là :
+ Nhà văn đã làm sống dậy trong sự kiện ấy một tình thế bất thường của quan hệ đời sống (quan hệ giữa các nhân vật tham gia vào sự kiện, hoặc giữa nhân vật với ngoại giới).
+ Tại sự kiện ấy bản chất của nhân vật hiện hình sắc nét.
+ Tại sự kiện ấy ý tưởng của tác giả cũng bộc lộ trọn vẹn.
→Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.
- Về hình tướng của nó, cần khu biệt với hai khái niệm giáp ranh : đỉnh điểm và hoàn cảnh điển hình.
+ So với "đỉnh điểm", tình huống truyện vừa có điểm tương đồng vừa có điểm dị biệt. Đỉnh điểm là một khâu của hệ thống cốt truyện. Nó chỉ được coi là "đỉnh điểm" trong quan hệ với các khâu còn lại như giới thiệu, thắt nút, phát triển và cởi nút. Nó là cái "đỉnh chót" của hàng loạt sự kiện và biến cố dệt nên cốt truyện. Còn "tình huống" lại là cái sự kiện bao trùm lên toàn bộ một tác phẩm truyện ngắn. Trong tình huống dường như có đủ các khâu của cốt truyện nhưng dưới dạng đã được nén lại.
+ So với "hoàn cảnh điển hình", tình huống truyện vừa rộng hơn vừa hẹp hơn. Rộng về diện hoạt động. Nếu "hoàn cảnh điển hình" là khái niệm chỉ nhất thiết tồn tại trong một phạm trù văn học là "văn học hiện thực", thì "tình huống truyện", với tư cách là hạt nhân của một thể loại, lại có mặt ở mọi phạm trù văn học. Còn hẹp về qui mô. "Hoàn cảnh điển hình" thường được tạo dựng từ hàng loạt sự kiện với một khung cảnh xã hội rộng dài, thì tình huống chỉ là một "khoảnh khắc", một "lát cắt", thâu tóm vào khuôn khổ mộ sự kiện nhỏ và trọn vẹn nào thôi. Nếu nhìn từ tương quan với hoàn cảnh cũng có thể định nghĩa : tình huống là sự cô đặc của một hoàn cảnh điển hình nào đó.
- Về vai trò : Tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa là nó quyết định đến sự sống còn của một truyện ngắn. Hãy nhìn vào hai dạng biến động cơ bản về qui mô của truyện ngắn : a) dạng mở rộng : khi một truyện ngắn có đến hai sự kiện "tranh nhau" đóng vai trò hạt nhân, vai trò quán xuyến, thì truyện ngắn đang "vươn vai" thành truyện dài ; b) dạng giản lược : khi một truyện ngắn co mình lại trong một số chữ hạn định để thành truyện cực ngắn, truyện mini, thì có thể thấy các thành tố khác của truyện như nhân vật, cảnh vật, lời trần thuật có thể giảm thiểu đến kiệt cùng, còn cái mà nó quyết giữ chính là tình huống. Mất "tình huống" nó có thể thành tản văn, thành tuỳ bút, thành thơ văn xuôi, thành kí, nghĩa là thành gì gì khác… chứ quyết không thể còn là truyện ngắn. Mất tình huống tức là mất tính cách truyện ngắn. Vì thế mà có thể thấy vai trò của nó trong hai tương quan sau :
+ Với văn bản truyện ngắn : nó là nhân tố tổ chức của thiên truyện. Tức là nó bao trùm và chi phối các thành tố khác như nhân vật, cảnh vật, bố cục, kết cấu, lời trần thuật… Nhìn ở chiều ngược lại, những thành tố kia châu tuần xung quanh để làm sống dậy cái tình huống này. Diện mạo của một truyện ngắn, xét đến cùng, là do tình huống quyết định.
+ Với người viết truyện ngắn : tạo được một tình huống đặc sắc, xem như đã có một tiền đề khá chắc chắn cho thành công của tác phẩm. Nghĩa là, để làm nên một truyện ngắn đầy đặn, người viết còn phải lo nhiều khâu khác như dựng người, dựng cảnh, lo tâm lí, lo đối thoại … như thế nào nữa. Nhưng lo được tình huống rồi thì coi như đã có một hứa hẹn tin cậy. Sáng tạo tình huống truyện là phần việc cốt yếu của lao động truyện ngắn vậy.
Tình huống truyện Vợ nhặt
(Tình huống là một lát cắt của thân cây, qua đó ta thấy một cuộc đời thảo mộc.)
Lạ: Tràng nghèo khổ, là dân xóm ngụ cư, ngoại hình xấu xí, tính tình lại ngộc nghệch, bỗng nhiên lại có vợ, mà là vợ theo không.
Éo le: Trong tình cảnh nạn đói khủng khiếp, miếng ăn còn là vấn đề sinh tử, bản thân Tràng nuôi thân còn không nổi mà tính đến chuyện “đèo bòng”. Hạnh phúc lứa đôi diễn ra trong cảnh tượng thê lương của nạn đói.
→ Tình huống éo le này dẫn đến những tâm trạng đầy đối lập ở mỗi người, “một trạng thái chông chênh, khó nói” – cái gì cũng chập chờn như có, như không. Đây là niềm vui hay nỗi buồn? Nụ cười hay nước mắt? (Cái thế đặc biệt này của tâm trạng khiến tác phẩm mang dáng dấp của thơ ca! ) Càng ngẫm càng “ai oán xót thương”:
Người dân xóm ngụ cư: ngạc nhiên, vui buồn trộn lẫn. “Những khuôn mặt hốc hác, u tối của họ rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát...” nhưng cũng xót xa, ái ngại “ Ối chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về...”
Bà cụ Tứ: ngạc nhiên, thương và lo âu, buồn tủi.
Tràng: ngạc nhiên vì chính mình đã có vợ, bên cạnh niềm vui, có lúc cũng thấy chợn “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”
Góp phần khắc họa giá trị hiện thực của tác phẩm: số phận, thân phận nhỏ nhoi của con người trong nạn đói.
Đặc biệt thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: vẻ đẹp của con người lao động – bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn tỏa sáng tình yêu thương, cưu mang lẫn nhau, khát khao hạnh phúc, hướng về tương lai với niềm tin và hi vọng. “Cái đói hành hạ mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ” (Kim Lân); lên án tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật,..GV: Bức tranh về nạn đói năm 1945, qua ngòi bút của Kim Lân được thể hiện như thế nào? Qua thời gian, không gian, con người??
GV lưu ý không gian của bức tranh nạn đói
GV gợi ý thêm hình ảnh và những chi tiết khác về con người trong ngày đói để HS có thể tổng hợp kiến thứcHS suy nghĩ, trả lời dựa theo những dẫn chứng trong SGK, theo đúng trình tự văn bản:
-Thời gian: Chiều muộn
-Không gian: giữa hai bên phố úp sút,..
-Người chết như ngả rạ,..
-Người sống đi lại lặng lẽ,..
→ Miêu tả bức tranh về nạn đói và tình cảnh của con người với thân phận nhỏ bé
→Kết luận về bức tranhGiá trị nhân đạo
Bức tranh về nạn đói năm 1945 với bao niềm xót thương:
Mở đầu tác phẩm bằng câu văn: “Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào”
+ Đã gợi niềm kinh hoàng: “tràn đến” là mạnh mẽ như thác dữ
Được tả trong thời gian: chiều muộn, nên càng trở nên tối tăm, thê lương.
+ Được cảm nhận bằng hình ảnh:
Người chết: như ngả rạ, không buổi sáng nào... ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường
Người sống: “khuôn mặt hốc hác, u tối”, nhưng đáng sợ hơn cả là hai lần Kim Lân so sánh người với ma: “xanh xám như những bóng ma”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”
→ Cái thời ghê rợn: đó là thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc. Cõi âm nhòa vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ
Trong không gian ngổn ngang người sống, kẻ chết ấy là âm thanh của tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc, thê lương.
Cái đói đã lộ hết sức mạng hủy diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp
(Lưu ý: cái đói đuợc đặt trong không gian: “hai bên dãy phố úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn”, “Từng trận gió từ cánh động thổi vào ngăn ngắt” → không gian tối tăm, lạnh lẽo đến ghê sợ!)
Trong cảnh đói khát thê lương ấy, con người dường như chỉ nghĩ đến miếng ăn:
+ Bốn bát bánh đúc mà làm nên một mối tình
+ Vì đói mà cô vợ nhặt đã theo không một chàng trai xấu xí, nghèo khổ, xa lạ
→ Thân phận con người thật nhỏ bé, rẻ rúng như cái rơm, cái rác
KL: Miêu tả cái đói, nhà văn muốn thể hiện niềm cảm thương vô hạn đối với những con người bất hạnh trong đám tang lớn của dân tộc, đất nước. Thể hiện lòng căm hờn trước tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật: vơ vét thóc gạo, bắt dân ta nhổ lúa trồng đay phục vụ cho chiến tranh dẫn đến từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói, bức tranh về nạn đói được cảm nhận bằng tất cả mọi cảm giác: thị giác, thính giá, khứu giác,... và bằng cả trái tim giàu tình thương của nhà văn.GV: Chia lớp ra 3 nhóm, hướng dẫn học sinh phân tích các nhân vật: bà cụ Tứ, anh Tràng, cô vợ nhặt. Từ đó hướng dẫn học sinh tổng hợp, khái quát về vẻ đẹp của tình người, của khát khao mãnh liệt về hạnh phúc ở các nhân vật trong truyện.
HS các nhóm chuẩn bị trong 5-10p, dựa trên phần đã chuẩn bị ở nhà, lần lượt từng nhóm trình bày, GV bổ sung và chốt lại về cả 3 nhân vật. Trong quá trình HS trả lời, GV có thể định hướng và phát vấn thêm
*Tràng:
-Vì sao Tràng lại quyết định rủ người đàn bà mới gặp hai lần về làm bạn với mình?
-Trên đường về nhà, thái độ của Tràng thay đổi như thế nào?
-Diễn biến tâm trạng và thái độ của Tràng khi dẫn thị vào nhà mình như thế nào?
-Tâm trạng của Tràng vào buổi sáng hôm sau có gì thay đổi? Suy nghĩ của Tràng có những biến chuyển gì? Vì sao?
HS phân tích nhân vật dựa theo định hướng của GV trên một số gợi ý:
+Tên tuổi, hòan cảnh sống, ngoại hình của nhân vật
+Những phẩm chất, khát vọng của nhân vật ẩn sau ngôn ngữ, hành động...
+Những thay đổi của các nhân vật trong buổi sáng ngày hôm sau
+Phỏng đoán thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vậtVẻ đẹp ngời sáng của tâm hồn người lao động trong cảnh thê lưong của nạn đói:
Tràng:
Cái tên: đã gợi lên sự lam lũ, vất vả. Tên của anh là tên một thứ đồ vật, một dụng cụ của người thợ mộc.
Đó là một người đàn ông nghèo khổ, xấu xí, thô kẹch: hai con mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, lưng rộng như lưng gấu... đã vậy tính tình ngộc nghệch: có tật vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều hắn nghĩ. Nhưng ẩn chứa sau cái vẻ ngoài xấu xí ấy là vẻ đẹp tâm hồn: tấm lòng nhân hậu và niềm khát khao hạnh phúc.
Những phẩm chất cao đẹp:
Tấm lòng nhân hậu: Ta có thể cảm nhận được điều ấy qua cách cư xử của anh với vợ nhặt
Tràng gặp thị 2 lần – vào những dịp chở thóc Liên đoàn lên tỉnh
+ Lần 1: 2 người chỉ trao đổi với nhau vài câu đùa bỡn, không chứa đựng tình ý gì
+Lần 2: gặp lại thị, Tràng không nhận ra vì thị thay đổi nhiều quá “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
Thị nhắc lại, Tràng mới nhớ, nhớ rồi thì cười và mời chị ăn giầu. Chị không ăn lại gợi ý “có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”→ Tràng hào phóng đãi thị: “Đấy, muốn ăn gì thì ăn” → Không tính toán thiệt hơn. Trong hoàn cảnh đói quay đói quắt, miếng ăn là vấn đề sống còn, cho người khác ăn là chia đi một phần sự sống của mình, Tràng quả là người có tấm lòng nhân hậu trong sáng: sẵn sàng chia sẻ với người cùng hoàn cảnh.
+ Khi người đàn bà xa lạ theo Tràng: ban đầu anh cũng thấy “chợn” nhưng cảm xúc ấy chỉ thoáng qua, tình thương người, lớn hơn và đặc biệt, khát khao hạnh phúc mãnh liệt hơn nhiều. Tràng đã quyết định rất chóng vánh: “tặc lưỡi một cái” , nhận về mình cả một gánh nanựg, một nỗi lo, sẵn sàng đánh cuộc cùng cái đói để có được hạnh phúc bình dị.
Niềm khát khao hạnh phúc (vượt lên trên cái đói, cái chết!)
Là chàng trai hộ tụ đủ yếu tố để ế vợ, Tràng rất mong có một mái ấm gia đình
Thể hiện ở ngay câu nói có vẻ bất cần của anh “Làm đếch gì có vợ” → câu nói chua chát mà cũng đầy khát khao, mong mỏi
Thể hiện ở câu nói đùa “Này, nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” → bỡn cợt nhưng trong thâm tâm, Tràng thực sự mong có vợ
Thể hiện ở nụ cười của anh: gần 20 lần tác giả miêu tả gương mặt anh Tràng biểu lộ niềm vui khi có vợ và nụ cười của Tràng khi thì “tủm tỉm”, khi thì “bật cười” khi thì ‘cười cười”
Dẫu là vợ nhặt, dẫu là người không ăn nói văn hoa nhưng Tràng vẫn chờ mẹ về ngồi “chĩnh chện” để thưa chuyện với lời lẽ trang trọng: “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”
+Câu nói xiết bao nâng niu, trân trọng đối với người vợ nhặt, đưa cô thoát khỏi nỗi xấu hổ, tủi phận ê chề
+Việc lấy vợ phải đâu là việc tầm phào nơi đầu đường xó chợ mà là chuyện nghiêm túc, thiêng liêng, đúng đạo nghĩa vợ chồng
→ Tấm lòng nhân hậu của Tràng thực đáng trân trọng trong cảnh ngộ ê chề, tăm tối
Hạnh phúc gia đình đã làm Tràng thực sự thay đổi:
+ Yêu thương và gắn bó với ngôi nhà lạ lùng: ngôi nhà như cái tổ ấm,..
+ Nghĩ về tương lai: cùng vợ sinh con đẻ cái
+Ý thức về bổn phận, trách nhiệm: phải chăm lo cho gia đình
+Muốn góp phần vào việc tu sửa ngôi nhà
Tràng thực sự đã nên người trong hoàn cảnh gìn giữ phần người thật khó: Tình yêu thương, tấm lòng vị tha của Tràng thật cao đẹp. “Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho ra người” (Kim Lân)Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi về đến nhà ? Vì sao từ ngạc nhiên đến mừng, lo, buồn tủi? Vì sao bà lại thấy thương người đàn bà trẻ xa lạ? Câu nói nào của bà cụ làm em cảm động nhất? Vì sao?HS lần lượt phát biểu ý kiến và bảo vệ ý kiến của mìnhBà cụ Tứ: Tấm lòng nhân hậu bao dung:
Dáng vẻ: “lọng khọng, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng” →Bà là hiện thân của những vất vả đau thương, đè nặng lên kiếp người và luôn bị ám ảnh, lo âu về cuộc sống trong những ngày đói khổi.
Diễn biến tâm trạng khi nghe tin Tràng có vợ:
Ngạc nhiên, bất ngờ: là cảm giác đầu tiên ở người mẹ nghèo khi theo con từ ngõ vào nhà:
Xưa nay, có bao giờ Tràng nôn nóng ngóng mẹ như vậy. Nhất định là phải có việc gì quan trọng, khác thường.
Bước chân bà lão “phấp phỏng” theo con vào nhà. Đến giữa sân thì “sững lại” → một lọat những động từ gợi tả tâm trạng thật tinh tế: lo âu và ngạc nhiên.
Ngạc nhiên ngày càng tăng:
+ Bao câu hỏi dội về đầy băn khoăn: “Quái sao lại có... Ai thế nhỉ?”
+ Qua cử chỉ, hành động: hấp háy cặp mặt cho đỡ nhoèn (nhìn kĩ người đàn bà và nhìn con tỏ ý không hiểu)
→ Bà chưa bao giờ hình dung đến việc một ngày mình lại được đón con dâu trong tình cảnh trỡ trêu, tội nghiệp như thế này
Cúi đầu nín lặng → Khắc họa cử chỉ mà chất chứa tâm trạng: đầy ắp nỗi buồn, đến quặn lòng mà không thể cất lên lời
Vì hiểu ra biết bao cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình
Vì tủi thân tủi phận: bà so sánh “người ta” với “mình” để chua chát, tự trách bản thân, để càng thương con nhiều hơn
Nước mắt của bà: là nước mắt buồn tủi, lo ấu và thương con da diết “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”
→ một đoạn văn ngắn mà chất chứa bao nỗi niềm của người mẹ nghèo. Bao trùm lên trên tất cả là nỗi thương con da diết, gắn với nỗi lo âu khắc khoải
Những không phải chỉ có tình mẫu tử. Trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, bà cụ Tứ là hiện hữu của tình người: Đó là cái tình của những người lao động nghèo yêu thương, đùm bọc, chở che nhau khi hoạn nạn:
Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà” nhưng khôn