Thi Pháp Thơ Nôm Nguyễn Trãi

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HOÀNG THỊ THU THỦY

THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2002 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào

khác.

Tác giả luận án

Hoàng Thị Thu Thủy

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 3

A. DẪN NHẬP ............................................................................................................... 5

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. ......................................................................................... 5

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. ................................................................................................ 7

2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông: ........................... 9

2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ Nguyễn Trãi........ 11

2.3. Thể loại, ngôn ngữ. ........................................................................................ 12

2.4. Về một số bài thơ trong QATT. ...................................................................... 14

3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ............................................... 14

3.1. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 14

3.2. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 15

4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN. .................................... 19

4.1. Giá trị khoa học. ............................................................................................. 19

4.2. Giá trị thực tiễn. ............................................................................................. 20

5. KẾT CẤU LUẬN ÁN. ......................................................................................... 20

B. NỘI DUNG .............................................................................................................. 22

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI TẬP .................... 22

1.1. TÌNH HÌNH VĂN BẢN QATT. .................................................................... 22

1.2. VĂN BẢN LÀM CHỖ DỰA CHỦ YẾU ĐỂ NGHIÊN CỨU THI PHÁP

QATT. .................................................................................................................... 26

1.2.1. Lưu ý một số từ cổ trong văn bản QATT cổ liên quan đến thi pháp của

câu thơ, bài thơ. ................................................................................................. 29

1.2.2. Lưu ý đến một số chú thích, giải nghĩa có liên quan đến điển: .............. 36

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN

TRÃI ......................................................................................................................... 39

2.1. NÉT KHU BIỆT CỦA THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI. ................ 39

2.2. THI PHÁP VỀ CÁI HÀNG NGÀY . .............................................................. 49

2.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT. ............ 54

2.3.1. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ........................ 55

2.3.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ............................ 65

Chương 3: THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" VỚI CÁC PHƯƠNG DIỆN: THỂ

THƠ, ÂM VẬN, NGÔN NGỮ ................................................................................. 71

3.1. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN THỂ THƠ. ........... 71

3.2. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN ÂM VẬN ............. 82

3.2.1. Nhịp điệu:................................................................................................ 82

3.2.2. Vần thơ trong "Quốc âm thi tập". ........................................................... 95

3.3. THI PHÁP NGÔN NGỮ TRONG QATT: .................................................. 100

3.3.1. Từ vựng ................................................................................................. 100

3.3.2. Biện pháp tu từ cú pháp. ....................................................................... 116

3.3.3. Tính nhạc trong QATT. ......................................................................... 130

C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 134

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139

5

A. DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, anh hùng dân tộc, nhà văn hóa dân tộc, nhà nghệ sĩ

ngôn từ vĩ đại của văn học Việt Nam.

Những điều như vậy được thể hiện trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nước

Đại Việt khỏi ách đô hộ của nhà Minh và trong sự nghiệp xây dựng nước Đại Việt sau

chiến thắng, được thể hiện ở những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi: Lam Sơn

thực lục, Chí Linh phú, Quân trung từ mệnh tập, Băng Hồ di sự lục, Bình Ngô đại cáo,

chiếu và biểu viết dưới triều Lê, Dư đ ịa chí, Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

(QATT). Nguyễn Mộng Tuân đánh giá Nguyễn Trãi: "Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền"

(Xây dựng làm vẻ vang cho nước xưa nay chưa từng có).

Nguyễn Trãi tỏa sáng trong thời đại của mình và tiếp tục tỏa sáng trong thời đại

chúng ta đang sống. "Nhớ Nguyễn Trãi là nhớ người anh hùng cứu nước, đồng thời là

nhớ nhà văn lớn, nhà thơ lớn của nước ta. Từ bài Bình Ngô đại cáo qua các bức thư

gửi tướng tá quân xâm lược, đến thơ chữ Hán và chữ Nôm... ngòi bút thần của Nguyễn

Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều đạt đỉnh

cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường! Nhiều tài hoa như vậy dồn lại ở một con

người thật là hiếm có" [30].

Cuộc đời, những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi là đối tượng nghiên cứu

của hàng loạt ngành khoa học: tư tưởng, đạo đức, chính trị, lịch sử, văn hóa, văn

học.v.v...

Các nhà nghiên cứu văn học, phê bình và lý luận văn học đã nghiên cứu rất nhiều

những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học

trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã chú ý đúng mức đến vấn đề thể loại, đến

văn chương được viết bằng chữ Hán và văn chương được viết bằng chữ Nôm, đến văn

chương chính luận, văn sử bút, văn địa chí và văn chương hình tượng; sự thống nhất,

sự đồng dị của chúng ở những trước tác và sáng tác của ông. Các nhà nghiên cứu cũng

thấy rõ nơi con người trước tác và sáng tác Nguyễn Trãi có nhà tư tưởng, nhà chính

trị, nhà thơ; ba nhà ấy là thống nhất trong Nguyễn Trãi, nhưng không phải không có 6

lúc lâm thời được chia tách. Và, ngay cả ở Nguyễn Trãi với tư cách nhà thơ thì các nhà

nghiên cứu và phê bình lý luận văn học cũng có thể phân biệt nhà thơ sáng tác bằng

ngôn ngữ Hán - Việt và nhà thơ viết bằng tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt đó không hẳn chỉ là

sự phân biệt về phương diện ngôn từ mà Ức Trai đã sử dụng để sáng tác thi ca.

Tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt

Nam, các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học đã thu được những thành tựu

lớn. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi là một trong những tác gia thuộc loại lớn nhất của văn

học Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình văn học nước nhà từ cơ tầng văn hóa Đông

Nam Á giao lưu với tư tưởng Ấn Độ, tư tưởng Trung Hoa và văn học Trung Hoa, xây

dựng thành công văn học thành văn của dân tộc, một tác gia như thế tạo ra trước mắt

các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học con đường vô tận để đi trên con

đường ấy, nếu muốn hiểu ngày càng đầy đủ hơn, ngày càng đúng hơn Ức Trai. Hơn thế

nữa, cần phải tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại

Việt Nam, bằng những phương pháp nghiên cứu mới có khả năng giúp chúng ta khám

phá những điều này hay điều kia chưa được phát hiện ở sự nghiệp văn chương của Ức

Trai.

Kế thừa những thành tựu lớn của các công trình nghiên cứu đi trước và bằng

những suy nghĩ như trên, chúng tôi chọn cho luận án của mình đề tài: Thi pháp thơ

Nôm Nguyễn Trãi.

Thơ Nôm của Ức Trai có quan hệ nội tại với những trước tác và sáng tác khác

của Nguyễn Trãi, nhưng không ở đâu như ở thơ Nôm của Ức Trai chúng tôi thấy rõ

ràng nhất Nguyễn Trãi - nhà thơ. Cho nên, đến với những tác phẩm văn chương khác

của Nguyễn Trãi đều có ý nghĩa đặc thù trên các phương diện lịch sử, xã hội mang tầm

cỡ quốc gia của một con người với tư cách là một nhà chính trị, văn hóa, ngoại giao,

bác học, khoa học, tư tưởng... Còn đến với QATT của Nguyễn Trãi là đến với con

người cá nhân nhà thơ, đến với tâm hồn, xúc cảm của nhà thơ trong quãng 14 năm

cuối đời. Đây cũng là một trong những lí do mà chúng tôi thấy là cần thiết và quan

trọng. Hiểu được tâm hồn, xúc cảm của người khác không phải là chuyện dễ, mà tâm

hồn, xúc cảm được biểu hiện qua thơ lại càng là sự khó khăn và tinh tế vô cùng.

Chúng tôi cho rằng sự phối hợp giữa lí thuyết thi pháp - đi sâu hơn vào lĩnh vực

nghệ thuật, với khả năng thẩm định văn chương vào văn bản QATT- được xem là văn 7

bản cổ nhất của văn học Việt Nam, sẽ làm sáng rõ sức sống lâu bền và sức tỏa sáng

của QATT nói lên sức mạnh nghệ thuật tự nó, vốn có và tiềm ẩn trong thi pháp của nó.

QATT vô cùng quý giá đối với dân tộc ta. Tập thơ là minh chứng hùng hồn cho ý

thức trở về cội nguồn, ý thức dân tộc hóa văn chương, nhân dân hóa thơ ca của

Nguyễn Trãi. Tập thơ còn là minh chứng về xúc cảm, tâm hồn của một "vĩ nhân" trong

lịch sử, là sự cách tân về bút pháp, ngôn ngữ và cấu tứ...; đó cũng là một kho chất liệu

cho ta nghiên cứu lời nói, câu viết của tổ tiên ta ngót 500 năm trước.

Chúng tôi cũng từng thao thức, trăn trở với những câu thơ mới đọc qua còn có

cảm giác trúc trắc, tắc nghẹn, nhưng càng suy nghĩ, nghiền ngẫm càng cảm nhận được

tâm hồn Ức Trai, tâm hồn một vĩ nhân trong lịch sử có một số phận hết sức éo le. "Văn

tức là người" (Le style c'est l'homme - Buffon, XVII siècle), QATT là tấm gương phản

chiếu tâm hồn của Nguyễn Trãi. Một con người suốt đời sống theo phương châm "tiên

ưu, hậu lạc" ("Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư" - Phạm

Trọng Yêm - Bài kí lầu Nhạc Dương - Lãng Nhân - Hán văn tinh túy Sài Gòn, 1965,

trang 224).

Là một giáo viên dạy văn ở trường sư phạm, chúng tôi nghĩ rằng hiểu sâu sắc về

một tác giả, một tác phẩm, có những thao tác khoa học hợp lí, xác đáng để phân tích

tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm văn chương vừa cổ, vừa khó, vừa có giá trị mở

màn, đột phá, vừa có vị trí đỉnh cao là một công việc khó khăn, phức tạp.

Năm trăm năm đã qua, QATT vẫn đầy vẻ đẹp và sức sống, làm rạng danh và sáng

tỏ tâm trạng Ức Trai - "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Ức Trai lòng dạ văn

chương sáng - Lê Thánh Tông)(

1

). Sự tồn tại của QATT xứng đáng cho các công trình

tiếp tục khảo cứu, nghiên cứu về nó. Mỗi một công trình sẽ có giá trị "bóc dần" rêu bụi

của thời gian, trả lại cho QATT sự lấp lánh diệu kỳ của văn chương một con người

"Tinh vi, thâm thúy, sáng sủa, đẹp đẽ" (Nguyễn Năng Tĩnh).

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

Theo tư liệu hiện có, QATT của Nguyễn Trãi là thi tập được viết bằng chữ Nôm

cổ nhất của văn học Việt Nam mà chúng ta còn giữ được. Đánh giá QATT, GS.Đinh

Gia Khánh viết: "Là một người đã từng lăn lộn trong phong trào đấu tranh rộng lớn

(1) Câu này được đối với câu dưới: “Vũ Mục hung trung liệt giáp binh” trong bài Minh lương 8

của dân tộc, đã từng sống gần nhân dân trong phần lớn cuộc đời mình, là một nhà văn

hóa dân tộc rất có ý thức về những giá trị tinh thần của đất nước Việt và con người

Việt, Nguyễn Trãi đã có đóng góp lớn vào sự phát triển của văn hóa dân tộc.

Trong lĩnh vực văn học, thì sự đóng góp ấy lại còn thể hiện rõ rệt ở việc đẩy

mạnh sự phát triển của thơ Nôm. Kế thừa những thành tựu của các tác phẩm đời Trần,

QATT của Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của văn học chữ

Nôm trong dòng văn học viết.

Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ở chỗ phản

ánh thiên nhiên của đất nước ta và sức sống của ông cha ta. Với thơ Nôm, ông đã có

thể phản ánh một cách cụ thể và sinh động hơn thiên nhiên ấy, cuộc sống ấy" [63: 400]

Bài nghiên cứu của Xuân Diệu: "Quốc âm thi tập tác phẩm mở đầu nền thơ cổ

điển Việt Nam" [133: 578 - 638] vào năm 1980 quan tâm trên nhiều phương diện: văn

bản (20 bài trùng giữa QATT và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập), con người Nguyễn Trãi -

"con người "trần thế nhất trần gian", con người thông thường càng làm tăng thêm giá

trị cho con người khác thường, chính cái phần con người thông thường làm cho vĩ

nhân mới hoàn chỉnh là một vĩ nhân trọn vẹn" [133: 613]; bàn đến câu thơ 6 chữ, Xuân

Diệu cho rằng: "Nhà thơ biết cách đặt các từ gốc bên nhau, rồi vì sức mạnh bên trong

của nội dung tạo ra một từ trường, cho nên các chữ hút nhau, không cần các thứ keo hồ

trợ từ" [133: 622] và tác giả bình luận đến một số từ Nôm được sử dụng trong QATT

của Nguyễn Trãi vừa biểu hiện ý thức dân tộc vừa biểu hiện giá trị nghệ thuật...

Nhìn một cách tổng quát thì các công trình nghiên cứu về QATT đan xen nhau

trên các phương diện vào những quãng thời gian tiếp nối nhau. Số bài nghiên cứu về

văn bản QATT khá tập trung vào giai đoạn đầu, số bài nghiên cứu về con người

Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi với thiên nhiên, và các bài thơ riêng lẻ trong tập thơ tập

trung trong thời gian gần đây với sự vận dụng thi pháp rõ nét. Phần lịch sử nghiên cứu

về văn bản chúng tôi xin được phép trình bày rõ trong chương 1 của luận án, những

công trình nghiên cứu còn lại chúng tôi tạm nhóm vào một số đề mục và lược qua theo

trình tự thời gian (ở đây chúng tôi chỉ lưu ý đến những ý kiến có liên quan đến đề tài

của luận án). 9

2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông:

Có 7 bài viết từ năm 1962 đến 1997, trong 7 bài nghiên cứu này chúng tôi tiếp

thu cách đánh giá về con người cá nhân Nguyễn Trãi của các tác giả Trần Đình Hươu,

Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử và Trần Ngọc Vương. Trần Đình Hượu (1995) cho

rằng: "Trong cả cuộc đời, khi còn chống Minh cũng như khi đã làm quan trong triều

đình, bao giờ Nguyễn Trãi cũng coi Nho giáo là đạo lí chính, nhưng tư tưởng Nho giáo

cũng không bao giờ độc chiếm tâm hồn ông. Từng thời gian, từng phạm vi khác nhau,

bên cạnh Nho giáo bao giờ cũng có một cái gì khác, thường là trái với Nho giáo, hoặc

là tư tưởng quyền mưu, hoặc là tư tưởng Lão - Trang, hoặc là nếp sống theo truyền

thống dân tộc. Thành phần phụ gia đó làm cho tư tưởng của ông thành đa dạng, phong

phú và trở thành gần gũi với chúng ta hơn nhiều. Nếu hình dung Nho giáo là một

đường thẳng thì tư tưởng Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn

quanh, không bao giờ trùng mà cũng không bao giờ quá xa đường thẳng. Đó là một sự

lựa chọn; Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho cả dân tộc" [58: 116]

"Thơ tâm sự chữ Hán và chữ Nôm là phần hay nhất mà cũng là phần nhiều nhất

trong thơ Nguyễn Trãi. Ta gặp ở đây những lời tự bạch hầu như trong nửa cuối cuộc

đời ông, từ những ngày còn đảm đương nhiều trọng trách của triều đình, bận bịu trăm

công ngàn việc đến những ngày "nhàm chán". [...] Ta gặp rất ít bài có tâm sự vui vẻ,

phấn chấn, đắc ý hành đạo mà lại gặp nhiều bài dằn vặt, đau xót khi ông bị nghi kị,

lâm vào cảnh ngộ nguy hiểm. Rất nhiều [bài] bộc lộ tâm sự chán nản, bực bội khi phải

sống lẻ loi, lạc lõng giữa triều đình. Hầu hết là thơ ca tụng cảnh nhàn, ca tụng cảnh

đẹp thiên nhiên, mối đồng tình với những con người thanh cao biết coi thú nhàn dật là

quý, ngàn vàng khó đổi được. Dầu đó là phần chủ yếu, tâm tình của ông không chỉ tập

trung vào lạc thú thanh nhàn. Đằng sau - và là sâu hơn lạc thú đó - là nỗi lòng day dứt

làm nhà thơ bạc đầu:

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông"

Điều hầu như luôn làm ông bận tâm, ray rứt là vấn đề xuất xử" [58: 104, 105].

Hoặc: "Trong cách hình dung của chúng ta, Nguyễn Trãi là anh hùng, là nhà chính

khách, là con người hành động, nhưng Nguyễn Trãi còn là con người có tâm hồn rất

nghệ sĩ. Ông thích ngồi dưới giàn hoa làm thơ, đốt lò hương đánh đàn, thích chèo 10

thuyền đêm trăng, thích cảnh đẹp. Cả hai con người khác nhau đó đã hình thành từ rất

sớm ở ông" [58: 106]

Bài viết của Nguyễn Hữu Sơn vào năm 1995 cho rằng: "Xét về nội dung tư

tưởng, dễ thấy ở Nguyễn Trãi xuất hiện cả ba mẫu hình con người nhà nho (theo cách

phân loại của giáo sư Trần Đình Hượu): hành đạo, ở ẩn và tài tử. Song nếu nhìn nhận ở

tư cách nhà nghệ sĩ lại thấy mỗi phương diện trên đều được Nguyễn Trãi giải bày trong

nhiều biến thái khác biệt, thậm chí đối nghịch nhau" [133: 732]

Trần Đình Sử (1997) cho rằng: "Cá nhân Nguyễn Trãi được thể hiện nổi bật trong

bản thân sự lựa chọn day dứt giữa các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng thân và

nhất là bảo thân..." [133: 723]

Trần Ngọc Vương (1997) nhấn mạnh quan hệ giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng

trong QATT: "Nhà tư tưởng phát ngôn và hành động cho đạo Nho, nhà nghệ sĩ mang

nặng nỗi ưu đời mẫn thế... nhà tư tưởng của triết học Lão - Trang và người nghệ sĩ ca

tụng thú thanh nhàn, hòa mình vào tạo vật" [133: 741]. Bàn đến sự thống nhất giữa các

mâu thuẫn hay là ý nghĩa bi kịch của Nguyễn Trãi, tác giả đã lí giải một cách xác đáng

bi kịch của Nguyễn Trãi là "xung đột giữa hai định hướng văn hóa" [133: 759], trong

mối xung đột đó thì "Nguyễn Trãi cô đơn, cô đơn đến tuyệt đối giữa những đại thần,

và sự nhẫn nại đến phi thường của Nguyễn Trãi là để thực thi cho bằng được một thiên

chức "tác chuẩn thằng" (tạo ra mực thước, chuẩn mực) cho những kẻ tư văn của đất

Việt" [133: 761]

Lê Chí Dũng trong công trình nghiên cứu "Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm

luật Đường" (Nxb Văn học, Hà Nội, 2001) đã phân tích và nhấn mạnh: "Như vậy trong

thơ Nôm luật Đường của Nguyễn Trãi hội đủ 3 loại hình tượng: hình tượng người anh

hùng đem hết sức bình sinh "phò đời, giúp nước", hình tượng người ẩn sĩ sống thanh

cao, lánh xa vòng danh lợi, hình tượng chàng trai hữu tài, hữu tình, cảm nhận sâu sắc

và tinh tế mọi biến dịch tinh diệu của thiên nhiên, của cuộc sống con người, duyên

dáng và tinh nghịch..." (trang 40). 11

2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ

Nguyễn Trãi.

Bài viết của Nguyễn Thiên Thụ (1973) trong mục IV: "Thiên nhiên đã khoác

những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian: cỏ, cây, hoa, lá, núi rừng, sông

hồ, bầu trời... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Sự thay đổi đó đã làm cho lòng

người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc" [133: 675]

Đặng Thanh Lê (1980) lưu ý đến không gian nhỏ bé bình dị nơi quê nhà Nguyễn

Trãi: "Nguyễn Trãi còn hướng ngòi bút vào những cảnh vật nhỏ bé, bình dị vẫn thường

dấu mình trong cuộc sống hàng ngày quen thuộc như nắng chiều, mây sớm, dậu cây,

bờ cỏ... nhân vật trữ tình ở đây trở thành chủ thể cảm thụ, chiếm lĩnh vẻ đẹp của thiên

nhiên từ góc độ một con người hòa mình vào xứ sở quê hương, nơi sinh trưởng" [133:

693].

Nguyễn Hữu Sơn (1985) trong bài viết "Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi" cho rằng: "trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân được cảm nhận như là biểu

tượng của vẻ đẹp toàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến" [133: 535], tác giả so sánh số lượng

thơ xuân trong thơ Quốc Âm và thơ xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi để đi

đến nhận định: "Chỉ với thơ Quốc Âm, với thứ chữ Nôm - thứ tiếng nói của tâm hồn

dân tộc - thì Nguyễn Trãi mới có điều kiện cảm nhận và diễn đạt được toàn bộ ý tưởng

của mình trước cuộc sống và cảnh đẹp của mùa xuân đất Việt" [133: 539]. Ý kiến của

La Kim Liên (1997) về trăng trong QATT là những đánh giá có giá trị khái quát, tổng

kết về quan hệ giữa trăng và thi nhân...

Tác giả Trần Ngọc Vương bàn về nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong QATT cũng

đề cập đến mối quan hệ giữa thi nhân với thiên nhiên: "Có thể nói, khi đối diện với

cảnh vật, Nguyễn Trãi có hai cách cảm thụ chủ yếu: kéo nó vào với mình và hòa mình

vào với nó... Nguyễn Trãi vật thể hóa những khái niệm trừu tượng, cảm tính hóa những

nguyên lý Nho gia khi ông là người hành đạo... và những người bạn muôn thuở ở

trong thơ các nhà nho ẩn dật cũng được Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đầy đủ trong thơ

ông: mai, tùng, cúc, trúc, thông... am quạnh, lều con, hương trầm... Nguyễn Trãi không

dựng lên những cảnh dữ dội hay những cảnh triền miên, vụn vặt. Cảnh trong thơ ông

thường "bén áo, xâm khăn" với con người" [133: 753, 757] 12

2.3. Thể loại, ngôn ngữ.

Về thể thơ lục ngôn chen thất ngôn Đinh Gia Khánh cho rằng: "Nguyễn Trãi

không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của một thể cách thi luật cố định. Viết theo

thể thất ngôn bát cú Hàn luật hoặc thất ngôn tứ tuyệt Hàn luật, thơ Nôm Nguyễn Trãi

không hiếm những bài mà kết cấu hoàn chỉnh và vững chắc. Tuy nhiên, đôi khi nhà

thơ vi phạm - hay nói cho đúng hơn - phá vỡ niêm luật của thể thơ ấy" [63: 411]

"Cho nên có thể nói thơ Hàn luật theo điệu Đường trong thời Nguyễn Trãi tuy đã

thông dụng nhưng không chiếm ưu thế trên văn đàn. 183 bài thơ còn lại của Quốc âm

thi tập là những bài thơ ít nhiều có thể cách tự do. Nói cho đúng hơn, đó là những bài

thơ tám câu hoặc bốn câu mà cấu trúc đối xứng thì ít nhiều giống thơ luật, nhưng số

âm trong câu thì lại có thể sáu hoặc bảy (lục ngôn xen kẻ với thất ngôn). Việc kết hợp

một cách linh hoạt những câu sáu và câu bảy như thế đã tạo cho thơ nôm Nguyễn Trãi

âm điệu riêng" [63: 412]

Có 3 bài viết liên tiếp nhau của tác giả Phạm Luận vào những năm 1980, 1991,

1997 (bài viết 1997 có sự cộng tác của tác giả Nguyễn Phạm Hùng). Bài viết năm

1980 thống kê: 159 bài bát cú có 391 câu 6 tiếng, 25 bài tứ tuyệt có 35 câu 6 tiếng

[133: 842], sau khi phân tích việc xen câu 6 tiếng tạo nên sự thất niêm, tác giả cho

rằng: "khi hình thức thể thơ trở thành đơn điệu với nội dung thì nhà thơ phải tìm đến

những hình thức thể thơ khác, kiểu câu thơ khác... trong cố gắng để xây dựng một lối

thơ Việt Nam, Nguyễn Trãi đã đưa vào thể thơ Nôm câu 7 tiếng với lối ngắt nhịp

3

4

� và

câu 6 tiếng. Đó là kết quả những tìm tòi sáng tạo của người Việt Nam, mà người đặt

mốc đầu tiên là Nguyễn Trãi" [133: 847, 849].

Bài viết tiếp theo vào năm 1991 tác giả nhấn mạnh đến tiết tấu của câu thơ Trung

Quốc và câu thơ Việt Nam, câu thơ Trung Quốc có thể xem là câu thơ ngũ ngôn luật,

được thêm vào đằng trước một bước thơ, gồm hai âm tiết, câu thất của ta lại là câu 6

âm tiết có âm tiết đầu tự làm một bước thơ, rút gọn một từ vẫn không phương hại đến

cả câu, và vì vậy câu thơ Việt Nam luôn có nhịp chẵn, tác giả cũng khảo sát có 215 lần

trong 145 bài có gieo vần lưng và vần trắc. Bài viết vào năm 1997 chung với tác giả

Nguyễn Phạm Hùng có lưu ý mấy vấn đề cơ bản sau:

- Cách hiệp vần trong thơ: QATT từ đầu đến cuối đều sử dụng vần bằng (trừ bài

126 và 200), như vậy xét về vị trí hiệp vần, thơ trong QATT không có gì khác với thơ 13

chữ Hán làm theo luật Đường của tác giả, chữ hiệp vần trong QATT chệch xa luật chữ

hiệp vần theo Quảng Vận. Do ngôn ngữ QATT từ thuần Việt chiếm một tỉ lệ cao, hơn

nữa ông lại ưa thích dùng những vần thuần Việt vào vị trí các "nút tiếng vọng" [133:

864]

- Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: số câu số chữ ở mỗi bài không cố định, "câu

lục ngôn không phải do Nguyễn Trãi sử dụng câu lục trong thơ dân gian Việt Nam. Nó

được hình thành từ chính câu thất ngôn luật Đường. Mỗi câu lục ngôn được tạo ra chỉ

bằng một cách là giảm một chữ ở câu thất ngôn luật Đường. Chữ giảm ở câu thất ngôn

tuy theo từng bài, có thể là một trong các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm, thứ sáu. Duy

chữ thứ 7 và chữ thứ 2 của câu thất ngôn thì bất cứ trường hợp nào cũng không thể

giảm" [133: 867]

Bàn về ngôn ngữ trong QATT có ý kiến của các tác giả Ngô Văn Phú, Bùi Văn

Nguyên, Hoàng Tuệ, Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương: đánh giá giá

trị mở màn và giá trị đỉnh cao của QATT trong sáng tác thơ bằng ngôn ngữ dân tộc.

Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn

liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học trên cơ sở ngôn ngữ của nhân

dân và ngôn ngữ của văn học dân gian. "Và trong hàng chục thế kỷ giao lưu văn hóa

[Việt - Hán] ngôn ngữ Việt trong khi vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng

cơ bản - những nhân tố chính để khẳng định một ngôn ngữ dân tộc - thì lại đã đ ồng

hóa rất nhiều từ ngữ Hán vào kho từ vựng của mình. Trong sự đồng hóa này, phải thấy

công lao của nhiều tác giả thơ văn nôm. Nguyễn Trãi là một trong những người đã góp

phần công lao xứng đáng. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay mượn của Hán

học." [63: 402]

"Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng

và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn

ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian" [63: 404]

"Những khả năng của ngôn ngữ Việt mà Nguyễn Trãi biết khai thác một cách tài

tình đã làm cho hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc.

Với Nguyễn Trãi, ngôn ngữ văn học Nôm đã tiến một bước đáng kể so với ngôn

ngữ văn học Nôm đời Trần. Thơ Nôm Nguyễn Trãi nhiều khi kết hợp được tính giản

dị, chân chất với tính mĩ lệ, tinh tế" [63: 408] 14

Bùi Văn Nguyên thống kê có 50 câu trong QATT có yếu tố của tục ngữ, 20 câu

có yếu tố của ca dao và kết luận: "từ trong lao động nghệ thuật của mình, các nhà thơ

dân tộc ưu tú nói trên, lại dần dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt lên làm cho

tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngay với tiếng

nói của nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [133: 815]. Hoàng Tuệ đề cao cống hiến của

Nguyễn Trãi trong QATT ở các phương diện: từ vựng, ngữ pháp, và kế thừa tục ngữ,

ca dao... "nếu như về tiếng Việt, thế kỷ XIX, Nguyễn Du sẽ tạo nên được niềm tự hào,

thì ở thế kỷ XV , điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên được là niềm tin. [133: 826]

2.4. Về một số bài thơ trong QATT.

Có 7 trong số 254 bài được các tác giả Trương Chính, Xuân Diệu, Trần Thanh

Mại, Lã Nhâm Thìn, Quang Huy, Phạm Tú Châu, Trần Đình Sử, Lê Trí Viễn, Đoàn

Thu Vân, Bùi Văn Nguyên, Cao Hữu Lạng, Lê Chí Dũng phân tích, bình giảng: Vô đề,

Tùng (2 bài viết), bài 208 [134], bài 170 [134], Ngôn chí VII, Bảo kính cảnh giới 43,

Mộc cận. Những bài viết của các tác giả: Lê Trí Viễn (bài 170, Tùng, 1994); Trần Đình

Sử (Tùng - 1995), Lê Chí Dũng (Ba tiêu - 2001) và Trần Ngọc Ninh (Mộc cận - 1973)

đều sử dụng các thao tác thi pháp thơ để phân tích, bình giảng. Các tác giả đều rất chú

ý đến yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu và đặc biệt Trần Ngọc Ninh đã sử

dụng nhiều thao tác của thi pháp cấu trúc đưa lại cho người đọc cảm nhận về cái đẹp

trong bài thơ "Mộc cận": từ hình ảnh bóng hoa dưới nước, hình ảnh "chiều mai nở,

chiều hôm rụng" để nói đến sự vô thường, đến rồi lại đi, có sinh và có tử. Từ câu 1 đến

câu cuối cùng, bài thơ đưa ta đi từng đợt, từ cái đẹp của cảnh đến cái chân lý của cuộc

đời... chỉ 4 câu mà mở rộng được chân trời triết lí bao la...

3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

3.1. Phạm vi nghiên cứu.

Vận dụng lý thuyết thi pháp, vận dụng các phương pháp khoa học, chúng tôi

nghiên cứu toàn bộ 226/254 bài thơ trong QATT (trừ 28 bài trùng) trên các phương

diện nội dung và hình thức (quan niệm nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật,

ngôn ngữ, thể loại, âm vận...). 15

3.2. Phương pháp nghiên cứu.

Nguyễn Trãi được xem là người mở đầu, ngươi tạo dựng, người khai sơn phá

thạch, người cha, thiên tài mẹ (génie - mère) của nền thơ tiếng Việt. Trước Nguyễn

Trãi cũng đã từng có những bài thơ tiếng Việt, nhưng nó còn lẻ tẻ, rụt rè, đôi khi tính

xác thực của văn bản còn chưa rõ ràng (chẳng hạn bài thơ của Điểm Bích chép trong

Tam tổ thực lục làm về Huyền Quang, hay bài thơ "Ăn cỗ đầu người" của Nguyễn

Biểu, bài thơ của Trần Trùng Quang..., thơ nôm của Nguyễn Sĩ Cố, Hàn Thuyên, Hồ

Quý Ly được ghi nhưng đã mất). Chỉ với hơn 200 bài thơ nôm của QATT, lâu đài thơ

tiếng Việt mới chính thức được đặt viên đá đầu tiên. Và đây là một bước đột phá về thi

pháp, hiểu theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này.

Thi pháp học hôm nay cơ hồ đã trở thành một cơn sốt, nhất là trong việc làm luận

án. Định nghĩa về nó có nhiều. Từ cổ xưa, như Arixtốt, Lưu Hiệp... đều có cách quan

niệm về "thi pháp học". Đến thời chúng ta, có nhiều định nghĩa từ "hàn lâm" đến thông

tục: "Theo cách hiểu thông thường hiện nay trên thế giới, thi pháp là phương pháp tiếp

cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn h ọc từ các hình thức biểu hiện bằng

ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm: ý

nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học.v.v... Cấp độ nghiên cứu thi

pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian,

không gian, cú pháp.v.v.) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể, ở đó các yếu tố

ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, họp thành một hệ thống, để biểu đạt ý tưởng, tình

cảm, tư duy, nhân sinh quan... tức là cái đẹp của thế giới, con người..." [49: 9, 10]

Nhưng hiểu một cách dung dị nhất, thì thi pháp là những phương tiện hình thức

để đạt tới nội dung, chuyên chở nội dung, mang tính nội dung, tính quan niệm, Và nói

chung, thi pháp là tất cả những sáng tạo và cách tân của một tác phẩm, một tác giả,

một trào lưu...; và tất cả là để làm cho người ta thấm thía cái hay của thơ. Nói thi

pháp dưới bất cứ khía cạnh nào, cũng đều là để hiểu (và cảm) được cái hay của một

câu thơ, một bài thơ, một trào lưu thơ. Khái niệm thi pháp gắn liền với phương diện

hình thức nghệ thuật, hình thức nghệ thuật không tồn tại tự nó mà luôn nằm trong sự

thống nhất chặt chẽ, biện chứng với nội dung nghệ thuật. Nội dung bao giờ cũng là nội

dung của một hình thức nhất định và nếu nói nó quy định hình thức thì lại có thể nói

hình thức cũng quy định nội dung. Bởi vì nếu không có hình thức ấy thì đã không diễn 16

đạt được nội dung ấy. Hình thức và nội dung luôn luôn ở trong nhau, xâm nhập lẫn

nhau, làm nên nhau. Không thể nào tách rời nội dung khỏi hình thức; người ta chỉ tách

rời hình thức ra khỏi nội dung trong nghiên cứu, trong tư duy trừu tượng - tư duy

nghiên cứu, đòi hỏi phải "trừu xuất" hình thức ra khỏi nội dung và ngược lại. Đó là

một sự "cô lập" nhất thời, còn trong thực tế tác phẩm, người ta không thể nói về cái

này mà không nói về cái kia. Nội dung thì vô hạn, hình thức thì hữu hạn, và quan hệ

giữa hình thức và nội dung không phải là quan hệ đối xứng, mà vẫn có tính độc lập

tương đối. Một hình thức có thể biểu hiện nhiều nội dung và một nội dung có thể được

biểu hiện qua nhiều hình thức. Có những cấp độ nội dung cũng như nhiều cấp độ về

hình thức, nhiều khi một cấp độ nội dung nào đó chỉ gắn kết với một cấp độ hình thức

nào đó mà thôi. Một nội dung gắn kết với một hình thức hoặc ngược lại.

Sáng tác văn học là một sự chọn lựa. Tại sao chọn thể loại này, nhịp thơ này, chữ

này... mà không lại là cái khác.v.v... Điều đó bị chi phối bởi một số quan niệm nghệ

thuật về con người, về thế giới, về truyền thống và sáng tạo... mà có khi chính người

sáng tác cũng không ý thức được hết, cũng không tự giác ý thức. Nhưng là người

nghiên cứu, chúng ta phải đi tìm các quan niệm ấy, cái lý lẽ ấy. Chúng ta phải dò tìm

sự thể hiện nội dung qua hình thức. Chúng ta nghiên cứu hình thức là để nghiên cứu

nội dung một cách hoàn thiện.

Như đã nói trên, thi pháp là một hệ thống của một cấu trúc hình thức (bề nổi hay

chiều sâu) nhưng nó là một biểu hiện của nội dung, liên quan đến nội dung. Và vì thế,

trên thế giới, ngày nay ta thấy có hai trường phái lớn về thi pháp, ta tạm gọi là thi pháp

vĩ mô và thi pháp vi mô. M.Bakhtin (1895 - 1975) có thể xem là người đại diện kiệt

xuất cho trường phái thứ nhất. Trong khi nghiên cứu về "Sáng tác của F.Rabelais và

nền văn hóa trào tiếu thời trung cổ và Phục hưng" hay "Thi pháp Dostoievski", ông

đều xuất phát từ lịch sử - thực tại - thế giới quan... là những phạm trù triết học - mỹ

học, những phạm trù nội dung và từ đó đi tìm những đặc trưng thi pháp như "tiếng

cười nhị chức năng", "chủ nghĩa hiện thực dị hợm" (groteque); hay thi pháp nhân vật,

thi pháp ngôn ngữ và cái bao trùm lên là tiểu thuyết đa thanh, đối thoại, vai trò của tư

tưởng... M.Bakhtin phân biệt thơ và tiểu thuyết: "Thơ là tiếng nói độc bạch

(monologique), chẳng hạn một bài thơ diễn đạt một nỗi oán than, một niềm vui, một 17

nỗi nhớ, một suy tưởng. Tiểu thuyết là đối thoại (dialogique), nhiều tiếng nói, nhiều

bè, hòa hợp với nhau, cãi nhau, đối chọi nhau" [49: 15, 16].

Trong khi đó, Jakobson lại là tiêu biểu cho trường phái thi pháp vi mô với tác

phẩm kinh điển "Thi học và ngữ học", Jacobson xuất phát từ việc định nghĩa và vạch

ra mô hình của một thông điệp (message) - người gởi người nhận - bối cảnh - tiếp xúc

- mã... và cố gắng đi tìm cách trả lời cho vấn nạn: làm thế nào mà một thông điệp

mang chức năng thi ca? Sau đó Jacobson đã phân tích những vấn đề tinh vi nhất, khó

khăn nhất của những kết hợp bên trong cấu trúc của một từ, một ngữ đoạn, một câu

thơ, cường độ, trường độ, độ tối - sáng, nhịp, nhịp yếu - nhịp mạnh, vai trò của cái nhỏ

nhất như morfème (hình vị) trong một bản văn... Như thế có thể nói Jacobson là đại

biểu cho thi pháp cấu trúc ngữ học, thi pháp vi mô... Sau những phân tích "soi kính

hiển vi" của ông vào các bài thơ của Bondelaire, thơ sonnet Shakespeare,... người ta

càng hiểu ý đồ của ông hơn trong việc ông muốn đi đến tận cùng, đi đến cái nhỏ nhất

mà có nghĩa trong thơ... "thơ - còn gọi là trục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy

chiếu, trục của các ẩn dụ... thơ sử dụng nhiều hình ảnh, nhiều từ tương đương, nhiều từ

đồng nghĩa... để diễn tả một tâm trạng, một suy tư (giọt lệ, giọt châu, giọt hồng, giọt

tủi... để nói nước mắt, sự đớn đau)..." [49: 16]. Jacobson xem thơ là sự thực hiện chức

năng thơ (poetic function) của ngôn ngữ trong quá trình sáng tạo nên tác phẩm nghệ

thuật ngôn từ, trên cả hai trục: lựa chọn (selection), và kết hợp (combination). Tác giả

còn lưu ý vận dụng lí thuyết thi pháp khai thác các đặc trưng của thơ: cấu trúc trùng

điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa...), kiến trúc đầy âm vang, nhiều khoảng trắng

trên không gian in thơ, chất nhạc tràn đầy.

Sau Jacobson đã có nhiều người kế tục và phát triển nhưng ông vẫn là người mở

đầu - kinh điển, mặc dù không phải lí thuyết của ông, lập luận của ông... được người ta

chấp nhận dễ dàng mà không phản biện, tranh luận(

1

)

Sau khi "nhận diện" trên nét lớn về thi pháp học như thế, chúng ta ứng dụng lý

thuyết này vào trường hợp thơ Nôm Nguyễn Trãi và xem xét chúng dưới góc độ thi

pháp, cố gắng tìm ra những nét riêng biệt làm thành cái chất riêng của thơ Nguyễn Trãi

bằng tiếng Việt.

(1) Xin xem: JONATHANCULLER STRUCTURALIST POETICS – Structuralison and the

Study of Literature, Linguistics, Cornell University Press, Ithaca, New York, 1975. 18

Lí thuyết thi pháp của Jacobson có gặp ở Nguyễn Trãi một điểm là người làm thơ

ngày xưa thường chọn từ, chọn ngữ đắc địa để sáng tác, thế nên mới có khái niệm

"nhãn tự" - con mắt thơ, hay nói như Đỗ Phủ: "Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu" (nói mà

không làm người sợ, chết không nhắm mắt). Tuy nhiên, ở QATT không vận dụng thi

pháp Jacobson đến mức phân tích hình vị, vì tiếng Việt không phải như vậy, nhưng gặp

gỡ ở việc lựa chọn từ ngữ trên hai trục lựa chọn và kết hợp. Phương Đông trong sáng

tác thơ thường liên quan đến việc tìm tứ thơ, mà đã nói đến tứ thì cũng phải tìm kiếm

các công cụ hình thức để thể hiện cái tứ của mình, điều này có liên quan đến việc lựa

chọn thể loại.

Trần Ngọc Ninh trong bài viết "Nguyễn Trãi huyễn thực và sắc không" cho rằng:

"Sau J.Cocteau, người ta thường nói rằng thơ là một ngôn ngữ; và sau R. Jacobson,

người ta sẽ nói rằng có một ngữ pháp của thơ. ở Việt nam, vào đầu thế kỉ thứ 15,

Nguyễn Trãi, nhà thơ thứ nhất của dân tộc đã thực hiện được một sự hòa hợp kì diệu

giữa hình thức và nội dung trong thơ của ông..." [104: 15, 16]

Vận dụng lí thuyết thi pháp, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp: so sánh

"so sánh tức là nghiên cứu": so sánh với cái trước nó, cái đồng thời với nó và cái sau

nó, trong không gian (khu vực địa lý, vùng, thí dụ: Trung Hoa, Nhật, Đông Á hay

Đông Nam Á...), và trong thời gian; phương pháp lịch sử đưa tác phẩm trở về với thời

đại đã sản sinh ra nó. Văn chương là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại thế nào

thì có văn chương như thế. Văn học cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách

quan, nên QATT còn mang dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của cá nhân Nguyễn

Trãi, và phương pháp lịch sử cũng là điều kiện để đánh giá hết tầm vóc và vị trí của

QATT, cho phép người nghiên cứu thấy được sự tương đồng của QATT với các tác

phẩm đương thời, hay sự đột biến (về ngôn ngữ, thể tài...) với các tác phẩm cùng thời,

trước đó và sau nó.

Trên cơ sở những thao tác như thế, phương pháp thống kê cũng là để tìm ra

những tần số xuất hiện của hình tượng, ý tứ... từ đó đi sâu vào mạch ngầm và hệ thống

của văn bản để xem tác giả có một quan niệm, một cái nhìn như thế nào? Căn cứ vào

những số liệu, cứ liệu khách quan, thực chứng để nêu lên và giải quyết vấn đề. Mọi sự

thống kê, phân loại đều nhằm vào mục đích thể hiện một tư tưởng, một giá ưị nghệ

thuật đằng sau những con số (trường hợp câu lục ngôn trong 163/ 226 bài là một ví 19

dụ...). Chúng tôi cố gắng vận dụng những mặt mạnh của thi pháp học cấu trúc vào việc

nghiên cứu vần điệu, giọng điệu, ngôn từ..., không phải bằng cách tách rời nó khỏi nội

dung - tư tưởng, mà chính là để làm rõ thêm những nhân tố của hình thức ấy đã làm

tôn vinh nội dung.

Chúng tôi thống nhất về mặt phương pháp luận, vì thi pháp QATT là thi pháp của

226 bài thơ trong một tập thơ, vì vậy việc tiếp cận với tác phẩm này luôn tiến hành

trên cơ sở hệ thống, tính đa dạng trong xúc cảm của một cá nhân nhà thơ. Vì vậy tính

hệ thống như là một đặc điểm mang ý nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ

sở từ bản thân đối tượng của khoa học này.

Chia tách ra các phương pháp như vậy để nhìn nhận vấn đề cho rõ ràng, thực chất

các thao tác này luôn luôn kết hợp với nhau, kết hợp trong nhau và với mục đích là

khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm QATT trong mối quan hệ thống

nhất, biện chứng.

4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN.

Khoa học - nhất là khoa học xã hội bao giờ sự sáng tạo cũng dựa trên cơ sở kế

thừa, nên những đóng góp trong luận án của chúng tôi là đóng góp trên phương diện

kế thừa thành quả của những người đi trước. Kế thừa thành quả của người đi trước là

thuận lợi cho luận án, đồng thời cũng là khó khăn cho người viết luận án, bởi vì khoa

học đòi hỏi có những đóng góp mới mẽ, sáng tạo, không chấp nhận sự vay mượn hay

sự lặp lại.

4.1. Giá trị khoa học.

Bắt đầu từ vấn đề văn bản QATT, tức là đến với QATT từ văn bản đích thực của

nó, chúng tôi vận dụng lý thuyết thi pháp, cùng với các thao tác khoa học, để tiến hành

nghiên cứu tổng thể QATT trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người,

không gian và thời gian nghệ thuật, cùng với các vấn đề về thể loại, âm vận, ngôn

ngữ... và dự kiến đạt được những kết quả sau đây:

- QATT là bước ngoặt quan trọng trong nền thơ ca nước nhà, mở màn đột phá

cho thơ ca Việt Nam sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, tạo đà cho thơ ca Việt Nam phát triển

trên cơ sở trở về với cội nguồn dân tộc. Dùng tiếng Việt để sáng tác, ngôn ngữ trong 20

QATT đạt đến mức dân dã nhất, tinh túy nhất và cũng dân tộc nhất trên tất cả các

phương diện: ngữ âm, tự vựng, cú pháp...

- Tập thơ là bước đột phá mở đầu cho việc vượt qua những quy phạm trong thơ

ca cổ điển, tìm đến với "cái hàng ngày", dân dã, bình dị, mộc mạc của đời sống Việt

Nam: từ ao rau muống, lãnh mồng tơi, ao niềng niễng, đến con vằn, con vện... Thi

pháp về cái hàng ngày được Nguyễn Trãi đột phá vào thế kỷ XV, vậy mà phải 3, 4 thế

kỷ sau mới có người kế thừa nó.

- QATT là tập thơ phần lớn sáng tác vào giai đoạn éo le cuối đời, nên âm điệu

chủ đạo của tập thơ là âm điệu buồn. Tập thơ thể hiện quan niệm triết lý của nhà thơ

về nhân sinh thế sự, về thế thái nhân tình, và ở phương diện đó còn bộc lộ một tâm

hồn, "một trái tim xúc cảm, rung động, giàu yêu thương, đầy trách nhiệm với dân, với

nước.

- Trên cơ sở khảo sát, đối chiếu, so sánh, chúng tôi thấy rằng với 163/226 bài có

xen câu thơ lục ngôn là một đóng góp lớn của Nguyễn Trãi trên phương diện thể loại.

Phải chăng con người vốn dĩ "Bình sinh độc bão tiên ưu chí" (bình sinh có chí lo

trước), vốn dĩ rất ý thức về nền văn hiến đất nước muốn góp phần dân tộc hóa một thể

thơ ngoại lai để không thay đổi được nhiều thì chí ít cũng cấu trúc lại đôi chút hình hài

để phả vào đó cái hồn Việt Nam? Các thiên tài bao giờ cũng cống hiến cho đất nước,

cho nhân dân những thành tựu có ý nghĩa khám phá.

4.2. Giá trị thực tiễn.

- QATT là tập thơ Nôm cổ nhất còn sót lại với một số lượng lớn (226 bài), nên

việc đọc, hiểu, cảm thụ, phân tích sẽ vấp phải một số vấn đề về từ cổ, về điển tích,

điển cố. Do vậy, luận án có ý nghĩa trong việc đề xuất một phương hướng tiếp cận với

tập thơ bắt đầu từ vấn đề văn bản.

- Luận án thành công sẽ là đóng góp cho công tác học tập, nghiên cứu QATT

trong nhà trường.

5. KẾT CẤU LUẬN ÁN.

Luận án ngoài phần dẫn nhập, phần nội dung gồm 3 chương: Một số vấn đề về

văn bản; quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật; thi 21

pháp QATT với các phương diện: thể thơ, âm vận, ngôn ngữ; phần kết luận có ý nghĩa

tổng kết những nét chính về thi pháp QATT.

Chương 1 có giá trị như là cơ s ở lí luận, là bàn đạp để tiếp tục tiến hành nghiên

cứu các chương tiếp theo. Bởi vì nghiên cứu văn học phải có cơ sở từ thực lực của

chính văn bản đó, mà văn bản QATT lại có vấn đề, nên chúng tôi đã điểm qua lịch sử

văn bản QATT, giới hạn phạm vi khảo sát văn bản, đề cập đến "một số từ cổ, chú

thích" được các nhà nghiên cứu văn bản QATT quan tâm. Chương này về cơ bản là

tiếp nhận và thừa hưởng thành quả của những người đi trước, chương này chỉ trình bày

trong 21 trang.

Chương 2 là tiền đề cho chương 3, đây là chương khó viết nhất trong luận án, bởi

theo phần lịch sử vấn đề chúng tôi đã trình bày, thì những vấn đề này được nhiều nhà

nghiên cứu đề cập rải rác đây đó, việc nghiên cứu tiếp tục rất cần đến sự sáng tạo.

Chương 3 mới là chương cơ b ản của luận án, chương này đến 76 trang. Ở

chương này chúng tôi khảo sát QATT trên các phương diện: thể thơ, âm vận, ngôn ngữ

và đã cố gắng vận dụng linh hoạt, phù hợp các thao tác thi pháp. Đây cũng là chương

mà người viết có một số đóng góp nhất định trong luận án.

22

B. NỘI DUNG

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI

TẬP

1.1. TÌNH HÌNH VĂN BẢN QATT.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, năm Quang Thuận thứ tám

(1467), tức hai mươi năm sau vụ án Lệ Chi Viên, Lê Thánh Tông sau khi rửa oan cho

Nguyễn Trãi đã hạ chỉ sưu tầm di cảo trước tác và sáng tác của Ức Trai. Trần Khắc

Kiệm đã làm công việc này trong suốt mười năm, nhưng Ức Trai thi tập do Trần Khắc

Kiệm sưu tầm, biên tập và đề tựa năm 1480 về sau cũng bị mất.

Đến thế kỷ XIX, dưới thời vua Minh Mệnh và vua Tự Đức, các nhà nho Nguyễn

Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh cùng nhau sưu tập tác phẩm của

Nguyễn Trãi và cho xuất bản vào năm 1868 với cái tên Ức Trai di tập, gồm 7 quyển,

trong đó QATT được in ở quyển cuối cùng.

Gần một trăm năm sau, năm 1956, QATT do Trần Văn Giáp và Phạm Trọng

Điềm phiên âm và chú giải ra đời. Công trình này là một cống hiến lớn đối với việc

nghiên cứu và thưởng thức thơ N ôm của Nguyễn Trãi, mặc dù hai tác giả của nó

không tránh khỏi những sai sót về phiên âm và chú giải.

Năm 1969, tiếp tục công việc của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm, Đào Duy

Anh hiệu đính và chú thích QATT.

Năm 1987, một tác giả là người Pháp lai Việt, Paul Schneider (tên Việt là Xuân

Phúc) - tác giả của cuốn "Từ vựng lịch sử chữ Nôm" (in ở Nice-Pháp), đã dịch QATT

sang tiếng Pháp với nhan đề Nguyễn Trãi et son recueil de poèmes en langue nationale

(xuất bản tại Nice, 1987). Sách này ngoài 573 trang gồm bản dịch và lời chú thích, còn

in đủ 254 bài thơ nôm, theo bản Phúc Khê 1868. Sách do Paul Schneider làm đi vào

ngữ âm lịch sử, sử dụng rất nhiều tư liệu cổ, nên chú thích được rất nhiều từ ngữ trong

QATT; đây là điều mới so với sách của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm hay sách

của Đào Duy Anh. Nhưng dù sao, Paul Schneider cũng không phải là người bản ngữ,

nên việc lý giải của tác giả hơi lạ, có nhiều chỗ đi quá xa, không tương hợp với văn

hóa Việt Nam. 23

Năm 1994 Bùi Văn Nguyên lại phiên âm và chú giải QATT với sách Thơ quốc

âm Nguyễn Trãi. Trong luận án của mình chúng tôi sẽ đề cập đến một số chú giải của

công trình này.

Kế thừa thành tựu của những người đi trước, dựa vào các cứ liệu của ngữ âm và

từ vựng, về chữ Nôm và Hán học, nhóm các tác giả Mai Quốc Liên, Kiều Thu Hoạch,

Vương Lộc đã hoàn thành Nguyễn Trãi toàn tập (tân biên, tập III). Công trình này đã

hiệu đính lại một số từ ngữ, một số chú thích trong QATT, đồng thời có văn bản Nôm

in theo bản Phúc Khê, 1868, rất tiện lợi cho việc tra cứu, đối chiếu. Trong quá trình

làm luận án chúng tôi sẽ đối chiếu bản QATT do Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích

với bản QATT được hiệu đính và chú thích bởi nhóm tác giả Mai Quốc Liên, Kiều Thu

Hoạch, Vương Lộc, vừa tham khảo các bản QATT khác của các soạn giả Trần Văn

Giáp, Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên...

Như vậy, tính từ 1956 đến nay đã xuất hiện nhiều bản QATT do nhiều soạn giả

phiên âm, chú thích; điều đó tạo nên những sai lệch nhau đáng kể về sự đọc và sự hiểu

thơ Nôm Nguyễn Trãi giữa các bản QATT. Những sự khác nhau về phiên âm và chú

thích thơ quốc âm của Ức Trai như thế đưa lại những hệ lụy gì đối với việc nghiên cứu

và cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi?

Cho đến nay đã có 10 ý kiến trao đổi về nguyên tác của QATT, về từ ngữ, về chú

giải.v.v... Trước hết, chúng tôi lưu tâm đến sự trùng nhau bộ phận giữa QATT với Bạch

Vân quốc ngữ thi tập. Theo Bùi Văn Nguyên trong thơ Quốc âm Nguyễn Trãi có 33

bài trùng nhau, ít thì ở 1 câu, nhiều thì cả 8 câu, và nêu ý kiến: "Nguyễn Trãi ở thế kỷ

XV không thể có thơ trùng với Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI... có khả năng là cả

33 bài gọi là trùng nói trên, chính là thơ của Nguyễn Trãi, do người đời sau chép lẫn

vào thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm"... Nhưng người khác lại cho rằng sự trùng nhau bộ

phận giữa QATT với Bạch Vân quốc ngữ thi tập nói trên cho thấy, thơ Nôm Nguyễn

Bỉnh Khiêm đã kế thừa thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trong thực tế, có thể xảy ra chuyện

Nguyễn Bỉnh Khiêm kế thừa trực tiếp Ức Trai trên 33 bài thơ ở những mức độ khác

nhau như ở trên đã mô tả; tuy nhiên, hai ý kiến ấy cho đến nay, chỉ là giả thiết, khi mà

chúng ta chưa tìm lại được ức Trai thi tập do Trần Khắc Kiệm sưu tầm, đề tựa và in

năm 1480. Và, vì chưa tìm lại được Ức Trai thi tập xuất hiện năm 1480, và vì các bản

QATT mà chúng ta hiện có đều dựa vào bản QATT do Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá 24

Cung và Ngô Thế Vinh cùng nhau sưu tập và cho xuất bản năm 1868, sau Bạch Vân

quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), nên nhà nghiên cứu văn học

có quyền đặt giả thiết ngược lại với ý kiến của Bùi Văn Nguyên; có thể có sự lẫn lộn

giữa thơ Nôm của Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiện nay chưa thể

nói đến dấu vết ảnh hưởng trực tiếp của thơ quốc âm Ức Trai đ ến thơ quốc âm của

Bạch Vân cư sĩ. Những ý kiến trái ngược nhau như thế là song song tồn tại, không ý

kiến nào có thể tồn tại như một chân lý tuyệt đối, lấn lướt những ý kiến khác.

Cách sưu tầm văn học của ông cha ta và nghề in Việt Nam trong thời trung đại

không cho phép chúng ta ngày nay đủ dũng cảm để khẳng định rằng 254 bài thơ Nôm

trong QATT do Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh sưu tập và xuất

bản năm 1868, tất cả những bài thơ Nôm ấy, đích thực là của Nguyễn Trãi; do đó, 254

bài thơ Nôm trong các bản QATT đều dựa vào bản Bối Khê 1868 xuất hiện từ 1956

đến nay cũng không thể coi tất cả là do Ức Trai sáng tác.

Để giải tỏa sự bế tắc về vấn đề xác định những bài thơ nào trong QATT mà

chúng ta hiện có là của Nguyễn Trãi cần phải làm gì?

Nguyễn Tài Cẩn trong bài viết: "Thử phân định thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ

Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm" đã xác định: Muốn giải quyết vấn đề tác giả của những bài

thơ trùng nhau giữa hai tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cần có sự hợp tác

liên ngành, vì đây là vấn đề phức tạp, cần phải có sự cân nhắc ở mọi phương diện. Sau

khi nêu ra một số ví dụ giữa các dị bản, Nguyễn Tài Cẩn cho rằng nên đi vào các chi

tiết cụ thể trong thói quen sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi,

từ việc sử dụng từ, cách kết hợp từ tổ, cách dùng 2, 3 từ liên đới với nhau, hoặc hô ứng

với nhau trong cùng một câu, thói quen bố cục toàn bài của mỗi tác giả... Sau khi nêu

ra một số thao tác như vậy, tác giả đi đến kết luận: "Muốn cân nhắc về một nét khu

biệt nào đây phải so sánh với hơn 390 bài thơ còn lại của Nguyễn Bỉnh Khiêm và của

Nguyễn Trãi; muốn cân nhắc về hơn 120 nét khu biệt đã dựng thành danh sách, tính ra

phải đọc gần 5 vạn lượt bài. Hơn nữa, trước khi tìm ra được hơn 120 nét khu biệt đó

thì cũng phải khảo sát thăm dò khoảng vài trăm hiện tượng ngôn ngữ, nghĩa là số

lượng lượt bài phải đọc để cân nhắc còn nhân lên gấp đôi gấp ba" [133: 885] (Những

chữ in nghiêng là do chúng tôi muốn nhấn mạnh). 25

Nêu ra một số nhận định trên để thấy rằng nghiên cứu thi pháp QATT phải có cơ

sở từ những văn bản được xác nhận có giá trị thực lực, loại trừ những văn bản còn tồn

nghi do có nhầm lẫn về câu chữ giữa hai tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bùi Văn Nguyên [102] đối chiếu 254 bài thơ Nguyễn Trãi (theo bản phiên âm

của Phạm Trọng Điềm và Trần Văn Giáp) với 178 bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (theo

bản phiên âm của Bùi Văn Nguyên - [102]) thì có 33 bài trùng nhau: 9 bài trùng từ 1

đến 7 câu, 24 bài trùng 8 câu, trừ một số chữ sai biệt không đáng kể.

Chúng tôi chọn "Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm" do Đinh Gia Khánh chủ biên

(Nxb VH, Hà Nội, 1997) so với QATT ở NTTT (tân biên, tập III) [134] thì thấy có 28

bài trùng nhau như sau:

26

Chỉ ra 28 bài trùng là để giới hạn phạm vi khảo sát văn bản của luận án – chỉ

nghiên cứu 266/254 bài (trư 28 bài vừa chỉ ra).

Ngoài vấn đề văn bản thực lực, còn có vấn đề phiên âm, chú thích, do chữ Nôm

được xây dựng từ chữ Hán, dựa trên tiếng Hán đời Đường, mang âm Hán Việt lại cấu

tạo theo nhiều cách, mang nhược điểm của một thứ chữ tượng hình cấu tạo rườm rà,

rắc rối, một chữ có thể đọc theo nhiều cách tùy theo ngữ cảnh..., nên đây cũng là yếu

tố tạo nên tình trạng không thống nhất về phiên âm, giải nghĩa, chú thích.

Nguyễn Đình Hòa sau khi điểm qua các công trình trong nước cũng như dịch ra

bằng tiếng nước ngoài về QATT cho rằng: "Có được nguyên bản chữ Nôm cùng mấy

bản phiên âm ra quốc ngữ và phiên dịch ra Pháp ngữ, Anh ngữ, những nhà Nôm học

tha hồ có dịp thảo luận về thoại này, thoại kia" [133: 584]...

Hoài Thanh cũng nói rằng: "Đọc thơ Nôm Nguyễn Trãi, người đọc nhiều khi cứ

nơm nớp không biết thơ của Nguyễn Trãi có đúng như vậy không. Trong bản chú thích

của mình, Đào Duy Anh chốc chốc lại nói: Chữ Nôm này có lẽ là do chữ... đã viết lộn

thành, vì vậy chúng tôi nghĩ nên phiên âm câu..." [133: 697].

Năm 2000, NTTT (tân biên, tập III) ra đời đã đặc biệt lưu ý đến vấn đề văn bản

QATT. Nhóm các tác giả nghiên cứu đã xác định: "...Nguyễn Trãi toàn tập là công

trình khó nhất, vì đó là công trình văn bản học khó nhất trong các công trình văn bản

học Hán Nôm. Có người sẽ nói rằng: Đã có người trước làm rồi, thì có gì là khó nữa?

Xin thưa: Chính vì đã có người đi trước làm rồi, mình làm mới khó khăn, vì bao nhiêu

vấn đề mà người đi trước để lại, do nhầm lẫn hoặc do phương pháp, mình phải vượt,

phải giải quyết. Mà những người đi trước là những bậc đại gia, cho nên những chỗ nào

mà họ để lại cũng là những quan ải hiểm yếu, vượt qua có khi gãy lưng, bạc đầu" [134:

Lời nói đầu]

1.2. VĂN BẢN LÀM CHỖ DỰA CHỦ YẾU ĐỂ NGHIÊN CỨU

THI PHÁP QATT.

Văn bản học là một ngành đặc thù. Ở Trung Quốc việc nghiên cứu văn bản bắt

đầu từ đời Hán, đến đời Thanh thì ngành học này rất phát triển, ở Nga, việc nghiên cứu

các văn bản văn học Nga cổ bằng tiếng Slavơ cổ rất phát triển ở thế kỷ XIX và đã có

nhiều nhà văn bản học lỗi lạc. Ở Việt Nam, với Trần Khắc Kiệm, Hoàng Đức Lương, 27

Lê Quí Đôn - đời Lê, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Dương Bá Cung... đời Nguyễn,

việc sưu tầm, giám định các văn bản cổ đã được chú trọng. Trong nhiều thập niên gần

đây, công tác này đã trở thành một ngành khoa học chuyến biệt. Các trung tâm nghiên

cứu văn học và khoa học xã hội đã tập trung các chuyên gia đầu ngành lần lượt giám

định lại tác phẩm của các tác gia lớn trong nền văn học quá khứ (Thơ văn Lý - Trần,

Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Cao

Bá Quát..). Trong quá trình khảo cứu, hiệu đính, chú thích, các tác giả đã phần nào trả

lại diện mạo cho các tác phẩm từng chịu số phận "tam sao thất bổn".

Đất nước ta từng vay mượn văn tự (chữ Hán), sáng tạo ra văn tự dựa trên loại văn

tự vay mượn (chữ Nôm), rồi chuyển sang dùng loại văn tự mới (theo hệ chữ Latinh -

chữ quốc ngữ), đất nước ta cũng từng bị quân xâm lược hủy diệt về văn hóa: "Một khi

binh lính vào nước Nam, trừ các sách vở và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không

thiêu hủy, ngoài ra, hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến những loại ca lý dân gian,

hay sách dạy trẻ nhỏ, loại sách có câu thượng đại nhân, khưu ất kỷ... một mảnh, một

chữ, đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa

đến nay thì đều gìn giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất, một chữ

chớ để còn" [143: 7], nên sự biến động về văn bản là không tránh khỏi.

Trong văn bản có vấn đề chân - ngụy, thực - giả. Trong nghiên cứu văn bản học,

việc "biện biệt chân ngụy" là một vấn đề rất lớn. "Kinh dịch" do ai làm ra, vào đời

nào? trong Trang tử những chương "Ngoại thiên" và "Nội thiên", chương nào đích

thực là của Trang tử? Ở nước ta, ai là tác giả đích thực của "Hoàng Lê nhất thống chí",

của "Lê Thánh Tông di thảo"? Ai là dịch giả "Chinh phụ ngâm", Phan Huy ích hay

Đoàn Thị Điểm? Và Hồ Xuân Hương, "nàng là ai", nàng là nàng hay là của những Hồ

Xuân Hương mượn tên nàng? Và phải chăng nàng Ngọc Hân đã làm nên lời ca bi ai

tuyệt diệu "Ai tư vãn" để khóc chồng mình? Trong văn học quá khứ, bản quyền tác giả

không được tôn trọng; tác giả không hưởng "nhuận bút"; lại còn bao nhiêu hệ lụy

khác, có khi phải bị rơi đầu vì cái gọi là "văn tự ngục" (án văn tự)... Trường hợp QATT

cũng là một hiện tượng phức tạp về văn bản vì tác phẩm ấy bị thất truyền do họa tru di,

chỉ sau khi được Lê Thánh Tông hạ chiếu rửa oan, khôi phục danh dự và chức tước

(1467) mới được sưu tầm lại. Sưu tầm lại rồi thất truyền và sưu tầm lại; sự lẫn lộn giữa

thơ văn ông với thơ văn người khác là có thể có. Chẳng hạn, sự lẫn lộn về một số bài 28

thơ Nôm của ông với thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiếm, có một số bài thơ chữ Hán còn

phải tồn nghi, (trong tiểu sử, Nguyễn Trãi không hề đi Trung Quốc, mà có một số bài

viết trên đất Trung Quốc được người đời gán cho Nguyễn Trãi).

Ngoài chân - giả, còn có nạn sao chép đi sao chép lại làm biến dạng văn bản, và

người ta hay gọi là "tam sao thất bổn" (ba lần sao chép thì mất bản gốc). Những lỗi

lầm văn bản học trong sao chép văn bản là một vấn đề phức tạp, nó liên quan đến

nhiều mối quan hệ. Và trong văn bản học, việc đi tìm những bản sao càng nhiều càng

tốt, để đối chiếu và lập ra những "phả hệ" của những bản sao ấy, trên cơ sở đó nghiên

cứu và xác lập lại văn bản gốc - văn bản gần nhất đối với nguyên tác. Việc đi tìm

những bản Kiều ở ta càng là một minh chứng cho việc làm đó. Tác phẩm của Nguyễn

Trãi được truyền đến chúng ta ngày nay chủ yếu là bộ "Ức Trai di tập" (7 quyển,

Dương Bá Cung, 1868), nhiều chữ Nôm trong đó đã được viết theo lối viết triều

Nguyễn, tuy vẫn còn bảo lưu được vốn từ cổ thời tiếng Việt thế kỉ XV .

Một điều ai cũng nhận thấy là khi đọc thơ tiếng Việt của Nguyễn Trãi, chúng ta

thường gặp không biết bao nhiêu là từ ngữ cổ. Thơ Kiều, thơ Chinh phụ ngâm... đối

với ngày nay đã là khó hiểu. Nhưng thơ Nguyễn Trãi còn cổ, còn khó hiểu hơn một

bậc. Nhiều từ ngày nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt, nhiều từ chỉ còn

trong các lớp từ địa phương, nhiều từ phải vận dụng ngữ học so sánh mới tìm ra nét

nghĩa. Người ta nói đến "bể dâu lịch sử", ở đây ta có thể nói đến "bể dâu cửa từ ngữ".

Đọc thơ của Nguyễn Trãi mà không có những chú thích, lý giải thì nhiều khi đành bó

tay.

Đề tài của luận án là nghiên cứu thi pháp của 226 bài thơ nôm Nguyễn Trãi - tức

là nghiên cứu một cách có hệ thống hình thức nghệ thuật của tập thơ trong tính thống

nhất giữa hình thức và nội dung. Do vậy, chúng tôi không đi vào vấn đề văn bản học,

mà dựa trên thành quả nghiên cứu văn bản học của nhiều nhà nghiên cứu, để nêu lên

một số vấn đề thuộc về phạm trù văn bản có liên quan đến thi pháp. Điều này có ý

nghĩa quan trọng trong quá trình tìm hiểu thơ ông - bởi vì nếu không chú ý đến đặc

điểm này chúng ta sẽ tiếp cận với thơ Nguyễn Trãi như tiếp cận đối với các tác gia thế

kỷ sau, khi mà tiếng Việt đã trưởng thành và phát triển, thì như thế chúng ta sẽ khó

lòng hiểu cho hết vẻ đẹp, ý nghĩa của văn chương Ức Trai: "Ức Trai lòng dạ văn

chương sáng" (Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo - Lê Thánh Tông). 29

Hiểu biết về văn bản QATT ở phương diện thi học là tiền đề cho luận án đi đúng

hướng, tức là khám phá hết cái phần tinh tế của câu thơ, bài thơ. Cách tiếp cận của

chúng tôi là bắt đầu từ một số tiếng cổ (những tiếng này thường có nhiều cách chú giải

khác nhau) trên cơ sở xác nhận nghĩa cơ bản của từ đó, đưa nó trở về văn cảnh của câu

thơ, của nhiều bài thơ có dùng tiếng đó, rồi xem xét trên phương diện ngữ âm, niêm

luật của bài thơ, để thấy cái hay của câu thơ - đơn vị cơ bản của bài thơ. Chúng tôi

cũng lưu ý đến một số chú thích, chú giải có ý nghĩa ở phương diện thi học.

1.2.1. Lưu ý một số từ cổ trong văn bản QATT cổ liên quan đến thi

pháp của câu thơ, bài thơ.

Đọc bài 2 (Ngôn chí), chúng tôi thấy có một số từ cổ cách phiên âm không giống

nhau giữa các văn bản QATT. Ở câu thơ thứ nhất:

"Thương Chu bạn cũ 各諸堆 "

Ba từ cuối của câu thơ các bản phiên âm không giống nhau, và từ chỗ phiên âm

không giống nhau dẫn đến việc chú thích cũng không giống nhau, nên việc hiểu nghĩa

của câu thơ, bài thơ cũng khác nhau. Các tác giả Trần Văn Giáp [39], Đào Duy Anh

[132], Bùi Văn Nguyên [102] đều phiên ba từ này là "Các chư đôi", nhưng cách giải

thích của Đào Duy Anh và Bùi Văn Nguyên lại không giống nhau. Đào Duy Anh cho

rằng: ba từ này khó hiểu, thử hiểu nghĩa: "Nguyễn Trãi gọi bạn cũ đời Thương Chu thì

chỉ có thể là Y Doãn và Chu Công... tự xét mình chưa có thể so sánh với Y Doãn và

Chu Công được. Nguyễn Trãi khiêm tốn tự cho mình "chưa sánh đôi" được với bạn

đời xưa. Vậy "các chư đôi" nghĩa là: đều là chưa sánh đôi với được." [132: 704] Hiểu

cả câu theo cách trên là: "Thương Chu bạn cũ đều là chưa sánh đôi với được".

Bùi Văn Nguyên lại giải thích theo kiểu khác: "Bạn cũ của Nguyễn Trãi đời Hồ,

lúc này có người làm việc với nhà Minh, như ngày xưa bề tôi nhà Thương có kẻ chạy

theo nhà Chu, Nguyễn Trãi nói: "các chư đôi" là nói không thể theo bạn cũ, kiểu bợ đỡ

giặc Minh, mà phải đi ở ẩn chờ thời; đó là tiếp câu thừa đề, câu thứ hai" [102: 33].

Hai cách giải thích này đưa đến cách hiểu câu thơ trong mối quan hệ với bài thơ

có khác nhau. Nếu theo cách giải thích của Đào Duy Anh thì ý của câu thơ thứ nhất

không lôgic với câu thơ thứ hai, vì luật thơ thường có sự chuyển tiếp giữa câu phá đề

và câu thừa đề. "Thương Chu bạn cũ đều là chưa sánh đôi với được" sao lại an tâm mà 30

"Xá lánh thân nhàn thuở việc rồi" - "thuở việc rồi" (rồi: xong, hoàn thành); khi việc đã

xong, đã hoàn thành.

Theo cách giải thích của Bùi Văn Nguyên thì ý thơ đi quá xa với nội dung của cả

bài, Nguyễn Trãi đã từng bị giam lỏng ở thành Đông Quan, đã từng ở ẩn chờ thời,

nhưng lại rơi vào trạng thái bức xúc, dở dang: "Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải"

(Thủ vĩ ngâm), hay "Quân thân chưa báo lòng canh cánh" (Ngôn chí, 8)... Vả lại, "ở ẩn

chờ thời" sao lại "Xá lánh thân nhàn thuở việc rồi" và "cởi tục", "tìm thanh" khi đã

thấm thía "mùi tục lụy"...

Trong NTTT (tân biên) lại phiên là: "gác chưa đôi": gác lại chưa tranh cãi, từ

"đôi" được hiểu là đôi chối, đôi co, và hiểu cả câu: Hãy gác lại chưa tranh cãi về

những người bạn hiền thần giúp dựng nghiệp Thương Chu. Đây là kiểu ẩn dụ để biểu

thị thái độ không đồng tình của tác giả với cách "xử lý" của Lê Lợi với các hiền thần

Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, và kể cả với Nguyễn Trãi. Trong bài "Oan thán",

Nguyễn Trãi có viết: "Hư danh thực họa, thù kham tiếu, Chúng báng cô trung, tuyệt

khả liên". (Danh hư họa thực, buồn cười nhỉ, Chúng nịnh mình trung, đáng xót thôi -

Nguyễn Khuê dịch).

Biết gác lại chưa bàn về những người bạn cũ giúp dựng nghiệp Thương Chu thì

mới có sự thanh thản khi "Xá lánh thân nhàn thuở việc rồi", và có cốt cách của một ẩn

sĩ lánh đời:

" Cởi tục trà thường pha nước tuyết

Tìm thanh trong vắt tận chè mai" [134]

Phép đối ở hai câu thơ này chưa chuẩn, bởi "trà" là danh từ không đối được với

"trong" là tính từ, nên có ý kiến phiên chữ "trà thường" là: "chung vét" - "chung" là cái

chén nhỏ: chung trà. "Chung vét tận": uống cạn chung.

Chữ " " cách phiên âm của các tác giả cũng không đồng nhất. Trần Văn Giáp

và Bùi Văn Nguyên đều phiên là "tiễn", Bùi Văn Nguyên giải thích: "Tiễn": thích hợp,

thích ứng; Đào Duy Anh lại phiên là "Tịn" và giải thích: tịn: tức là hết, hết chè hồng

mai nên phải uống với nước tuyết. NTTT (tân biên) lại phiên là "Tiện": sẵn có hoặc

muốn - "Đi tìm cái thanh cao thì sẵn có chén chè hồng mai (theo ý muốn) [134: 639] 31

Câu thơ thứ 7 nên đọc là: "Bui có một niềm chăng nỡ trễ" thì chúng ta mới hiểu

đúng tâm sự của Ức Trai. Vì một nguyên nhân nào đó, mà phải gác mọi chuyện lại,

lánh thân nhàn với lối sống ẩn sĩ, nhưng đạo quân thần thì không thể trễ nãi chút nào,

mà luôn canh cánh trong lòng Nguyễn Trãi. Người xưa khi dã "lánh đục tìm trong"

thường quay lưng với thế sự, nhưng Nguyễn Trãi tuy nói đến "nhàn" mà "quân thân tại

niệm thốn tâm đan". Tuy có làm bạn với thiên nhiên, cây cỏ để khuây khỏa nỗi lòng,

nhưng tấm lòng đau đời, lo nước vẫn "Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông".

Chỉ trong một bài thơ 8 câu (Ngôn chí, 2) có biết bao nhiêu điều "hệ lụy" về cách

phiên âm và giải nghĩa về các từ cổ, thì trong suốt 226 bài thơ trong QATT còn biết

bao nhiêu vấn đề cho người nghiên cứu quan tâm ? Đưa ra một vài từ cổ và lưu ý đến

sự phiên âm, giải nghĩa các từ cổ đó để thấy rằng: nghiên cứu thi pháp của cả tập thơ

là nghiên cứu thi pháp trên văn bản thực lực của tập thơ đó.

Có hai từ " " trong bài 207 là sự thú vị cho chúng tôi khi tra cứu vào sự

chú thích của các tác giả Đào Duy Anh, Paul Schneider và của nhóm tác giả trong

NTTT (tân biên). Đào Duy Anh và Paul Schneider phiên là: "đon dùng". Paul

Schneider còn dịch nghĩa cả câu: "Fleurs et lune se hâtent de jouir des instants

propices" (Hoa và trăng vội vã hưởng thụ những giờ khắc tốt lành). Ở phần "tự điển

tiếng cổ" (Glossaire) được giải nghĩa "đon" là se hâter de, s'empresser de (vội vàng,

hối hả, sốt sắng).

Như vậy, theo cách hiểu của Paul Schneider là "trăng và hoa" - khách thể thẩm

mĩ, "vội vã hưởng thụ những khoảnh khắc tốt lành" chứ ở đây không liên quan đến chủ

thể thẩm mĩ. Mà xưa nay, thiên nhiên là đối tượng (khách thể) thẩm mĩ của con người,

và con người có mối quan hệ với ngoại giới.

"NTTT" (tân biên) lại phiên là "ron ròng" và tra vào từ điển Génibrel thì thấy từ

"ron" có nghĩa là "ramesser", réunir (góp nhặt lại, họp lại). Còn "ròng" ngoài nghĩa

tinh chất (vàng ròng, bạc ròng...) còn có nghĩa "ròng rã, liên tục"... Cả câu thơ được

hiểu: "Cảnh hoa nguyệt dồn lại ròng rã được bao khoảnh khắc tốt lành" - cảnh đẹp của

trăng và hoa chẳng được là bao (con người có ý thức về điều đó không ?).

Cách phiên âm và chú giải này vừa phù hợp với từ cổ, vừa lôgic với ý tứ của cả

bài. Do "Thương cảnh vì nhân cảnh hữu tình", nên "Xuân ba tháng thời thu ba tháng" -

con số "ba" lặp lại hai lần như nhấn mạnh khoảnh khắc ngắn ngủi của thời gian và 32

cũng vì thế mà "hoa nguyệt" - khách thể thẩm mĩ của con người cũng tồn tại ngắn ngủi

biết bao - "Hoa nguyệt ron ròng mấy phút lành". Câu thơ mang tính triết lý về các

phạm trù hữu hạn và vô hạn, cũng như con người từng ngậm ngùi trước "ngày vui

ngắn chẳng tày gang".

Thi nhân, nghệ sĩ là người ý thức về cái đẹp, đưa cái đẹp đến cho mọi người, và

trong ý nghĩa đó còn nhắc nhở mọi người đừng thơ ơ, vô tình với cái đẹp, vì "hoa

nguyệt ron ròng mấy phút lành".

Trong QATT có một số tiếng ghi bằng hai mã chữ, nên hiểu nó như thế nào?

Bài 109 có câu thơ: "La ngàn non nước một thằng hề"

Từ "La ngàn" được Trần Văn Giáp, Đào. duy Anh phiên là "lê la", "La làn non

nước một thằng hề" - Lê la non nước một thằng hề. Là một ẩn sĩ sống nhàn: "Thong

thả dầu ta ngoài thế giới", sao lại "lê la" (dù "lê la" - nghĩa cổ có khác nghĩa hiện đại

thì cách chú này cũng là suy diễn và tiếng "la" trở thành một từ láy "lê la"), chú như

vậy có làm mất đi phong thái của một bậc quân tử như Nguyễn Trãi hay không ?

Từ "La ngàn" ở bài 109 này có âm tiết "la" giống với tiếng "la đá" trong các bài

21: "Dấu người đi la đá mòn", hoặc bài 54: "Cối cây la đá lấy làm nhà", hoặc bài 87:

"La đá hay mòn nghĩa chẳng mòn".

NTTT (tân biên) dựa vào một số cứ liệu ngữ âm học để giải thích: "La ngàn non

nước" là "Thiên sơn vạn thủy", nếu hiểu "La ngàn non nước" là "thiên sơn vạn thủy",

thì lột tả được thần thái "tiên phong đạo cốt" của Nguyễn Trãi, khi Nguyễn Trãi đã

chọn cách sống: "Mừng cùng vượn hạc quen lòng thắm", thì đi cùng "thiên sơn vạn

thủy" với "một thằng hề" là phù hợp (chứ sao lại "lê la"?)

Và điều thú vị là âm tiết "la" nhiều khi lại mang nghĩa, khi nó nằm trong cặp câu

đối ngẫu, ví dụ:

"Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc,

La đá hay mòn nghĩa chẳng mòn"

"Đá" đối với "vàng", "chính" (một danh từ, chỉ về một vật dụng - "Chuông khánh

còn chẳng ăn ai, Nữa là mảnh chĩnh ném ngoài bờ tre" - "Chuyện Tấm Cám") lại đối

được với "la", và "la" được xem như là một từ có mang nghĩa. 33

Tương tự như vậy, có trường hợp "Bà ngựa" ( ) trong bài "Thủ vĩ ngâm".

"Ngựa" được ghi bằng hai mã chữ (vốn là cách ghi từ cổ ma-gơ, hiện đang còn thấy

trong các ngôn ngữ vùng khu bốn cũ, như tiếng người Patakkan chẳng hạn). Vì không

nắm được luật đó, nên mới có chuyện phiên là "Bầy ngựa" (Trần Văn Giáp, Paul

Schneider), "Ngựa cái" (Bùi Văn Nguyên).

"Bà ngựa" là thói quen tự nhiên trong ngôn ngữ (người ta nói "bà ngựa" cũng

như nói "ông voi"). "Bà" là âm tố mờ không có nghĩa. Thế nhưng, ở trong thế đối xứng

của câu thơ 3, 4 trong bài "Thủ vĩ ngâm" thì "bà ngựa" được xem như tiểu đối được

với "con đòi", nên cũng có thể hiểu cả cách thô thiển "bà" cũng đồng đẳng như "con".

"Con đòi trốn, dường ai quyến,

Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn."

Thế nhưng, ở QATT còn có hiện tượng hai âm tiết được ghi bằng một mã chữ:

"Khách đến vườn còn hoa lác,

Thơ nên cửa thấy nguyệt vào" (Bài 35)

Tiếng "lác" nếu hiểu nghĩa là "lác đác" thì nghĩa của từ này cũng phù hợp với bài

164:

"Giậu cúc thu vàng nảy lác

Sân mai tuyết bạc che đầu"

Giậu cúc mùa thu nảy lác đác màu vàng. Sân mai (mùa đông) tuyết bạc che đầu.

Ý của hai câu thơ cân đối với vẻ đẹp cổ điển.

" " có thể phiên là "lác" hoặc "rác", từ điển Génibrel có ghi:

" " lác: dịch "lác đác" là rare (hiếm, còn ít) và dịch "lác rác" cũng là rare.

Paul Schneider còn đề xuất thêm một cách đọc khác là "lạc" (rụng) thì có lẽ

không phù hợp. Lí do, tự dạng của "Lác" ) khác tự dạng của "lạc" ( ); QATT có

bài 105 dùng từ "Rụng" - "Ngắm hoa tàn, xem ngọc rụng". Ý thơ "khách đến, hoa

rụng" đã từng có trong thơ Đỗ Phủ (trong bài "Khách chí"), và thơ cổ điển thường có

xu hướng "ôn nhu đôn hậu", thì không biết câu thơ "Khách đến vườn còn hoa lạc" có

đúng với ý của Nguyễn Trãi không ?

Ở trường hợp khác, cách giải thích một từ có trong hai bài lại không giống nhau.

Ví dụ: Tiếng "Ốc" ở bài 91 được hiểu là: "Tưởng nghĩ", theo Paul Schneider: "Ngõ 34

ốc": tưởng (S'imaginer), nghĩ (penser) - "Tưởng nghĩ khiêm nhường là mĩ đức" [134:

846]. Nhưng ở bài 195 lại chú là "Gọi" [134: 1076]. Cả hai cách chú thích lại phù hợp

với ý tứ của mỗi bài thơ.

Dẫn chứng thêm như vậy để thấy cái khó của văn bản QATT, nếu không đọc kỹ,

không hiểu rõ nghĩa của một số từ cổ trong một số bài thì các thao tác còn lại chỉ là vô

ích.

Đưa một từ cổ về đúng vị trí nguyên thủy của nó là phải có cái lý của sự tồn tại.

Một từ tự nó tồn tại độc lập khi nó là ngôn ngữ giao tiếp, nhưng ở câu thơ, bài thơ nó

phải chịu các mối quan hệ về ý, về tứ, về từ loại; nó còn mang tính hệ thống khi từ đó

được sử dụng nhiều lần trong cùng một tập thơ và cùng một tác giả. Đọc đúng một từ,

giải thích đúng một từ là mục đích của các nhà văn bản học. Phân tích được cái đúng,

cái hay, cái chuẩn là nhiệm vụ của người nghiên cứu văn chương. Hai công việc này

cùng song song tồn tại.

Từ " " trong các bài 111, 113, 116, 124 từ này nên chọn cách phiên âm, chú

thích nào để thấy được sự thống nhất của Nguyễn Trãi trong sử dụng ngôn ngữ. Có lẽ

nên phiên âm và chú thích theo cách của NTTT (tân biên): "biêu" (theo "Tự điển de

Béhaine) và nghĩa là "ngọn cờ, nêu danh, ngọn nêu, tiêu chí...". Xác định "Biêu" là

một tiếng cổ khoảng thế kỷ XV, XVI, XVII (Sách "Truyền kỳ mạn lục" chữ "đệ" (khoa

đệ: thứ bậc trong thi cử) được dịch sang Nôm là "biêu" như "Quả lĩnh tiến sĩ đệ" dịch

là "ắt lãnh biêu tiến sĩ", "Trạc tiến sĩ đệ" dịch là "tót được biêu tiến sĩ").

Và còn bổ sung nghĩa của "biêu", do "biêu" thông với "tiêu" ( ) nên còn hàm

các nghĩa "tiêu chuẩn, phù hiệu, phong độ, cách điệu, biểu dương, chuẩn mực, nêu

danh, khuôn mẫu".

Đưa các nghĩa trên vào bài 111, 113, 116, 124 đều lọn nghĩa.

Ví dụ: Bài 111; "Một lòng trung hiếu làm biêu cả" - "Một lòng trung hiếu làm

tiêu chí lớn". Trung hiếu là tiêu chí lớn trong suốt cuộc đời của Nguyễn Trãi - khi được

thời cũng như khi thất thế, Nguyễn Trãi bao giờ cũng lòng tự dặn lòng: "Bui có một

niềm trung hiếu cũ, Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen". Hay ở bài 124: "Lấy biêu

phú quí đổi biêu hèn". Người quân tử biết "khiêm nhường, trung hiếu" là đức tính tốt

đẹp thì cũng sẵn sàng từ bỏ "phú quí" để "lánh đục tìm trong". 35

Nhiều khi một từ cổ xuất hiện trong nhiều bài, nhưng khi phiên và chú thích lại

chưa thống nhất, nên ở bài này thì lọn nghĩa, bài khác thì chưa được.

Chữ Nôm thế kỷ XV vừa khó đọc, vừa khó hiểu so với ngôn ngữ hiện đại, thơ

Nôm Nguyễn Trãi càng khó hơn, bởi văn bản QATT đã hơn cả "ba lần" (tam sao) bị

chép đi chép lại, cho nên có từ tưởng là bình thường, mà lại thu hút sự chú ý của các

nhà làm văn bản QATT: Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh, Vũ Văn

Kính, Bùi Văn Nguyên, Paul Schneider, nhóm làm "NTTT" (tân biên), kể cả sự chú ý

của các nhà nghiên cứu quan tâm đến văn bản QATT: Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Tài Cẩn,

Nguyễn Quảng Tuân, Cao Xuân Hạo, Trần Xuân Ngọc Lan, Hoàng Xuân Hãn, Trần

Đình Hòa, Nguyễn Khắc Kham... "Song viết" ( ) hay "Song nhật" ( ) ?

Hai từ này không chỉ xuất hiện trong QATT trong các bài 10, 13, 18, 24, 49, 58, 156,

164; mà còn xuất hiện trong cả "Hồng Đức quốc âm thi tập", "Bạch vân quốc ngữ

thi"...

Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Kham đều phiên là "song nhật" với nghĩa

ngày chẵn, ngày của các quan được nghỉ, không phải vào chầu vua nên được nhàn nhã,

thong thả. Với nghĩa đó, thử đưa vào câu thơ "Con cháu chớ hiềm song nhật ngặt" thì

đã thấy ngay là không ổn.

"Song viết": mỗi người phiên âm hai chữ này đều có cách giải thích riêng của

mình: "thật là" (Hoàng Xuân Hãn), "gia tài, của thừa kế, di sản" (Paul Schneider);

"rông vát": phiêu lãng bồng bềnh, ngao du nhàn tản, sống cuộc sống lang bạt, nay đây

mai đó (Nguyễn Tài cẩn). Đào Duy Anh đề ra một giải pháp là chọn những từ ngữ

tương đương để thay thế vào các bài cho lọn nghĩa... Với tất cả các cách chú giải trên,

chỉ có cách của Paul Schneider là có thể lọn nghĩa cho các bài: 10, 13, 18, 24, 49, 143,

156, 164, nhưng đến bài 58 lại bị vướng, và ở bài 58 lấy nghĩa giải thích của Nguyễn

Tài Cẩn thì phù hợp.

Thật đúng là "Xem như thế thì thấy chữ "song viết" là một chữ vô nghĩa mà nó

có cái vận mệnh lạ lùng đã cho nó một sức hấp dẫn đặc biệt, khiến người ta trong khi

chép lại tập thơ Quốc âm của nguyễn Trãi, hễ gặp chữ nào khó hiểu mà có tự dạng ít

nhiều tương tự với nó thì người ta dùng nó để giải quyết" (Đào Duy Anh).

Và chừng nào chưa có thêm các chứng cứ có hệ thống trên các sách Nôm cổ Việt

Nam thế kỷ XV , XVI, XVII thì "song viết" vẫn còn đó, chưa xong. 36

1.2.2. Lưu ý đến một số chú thích, giải nghĩa có liên quan đến điển:

Dụng điển là thi pháp của thi ca cổ điển, "gợi cổ hiểu kim" - câu thơ càng gọn,

càng kiệm lời, ý thơ càng sáng càng sâu sắc.

Nguyễn Trãi thì vừa "bác cổ", vừa "thông kim", vừa là nhà nho, vừa mang tư

tưởng Phật giáo, Đạo giáo, vừa dùng ngôn ngữ văn chương bác học, vừa vận dụng lời

ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, nên giải nghĩa các điển trong QATT đòi hỏi một

sự liên hệ sâu xa về các loại kiến thức.

Dùng điển là nghệ thuật của người sáng tác văn chương, người làm văn bản học

giải mã được điển thì khác nào "Bá Nha gặp Tử Kỳ", và người đọc như "đốn ngộ"

trước những câu thơ giản dị mà sâu sắc, ý vị.

Ở bài 41, có hai câu 7, 8:

"Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi,

thấy tiên đâu"

" " Paul Schneider phiên là "Rìu bủi bủi" và chú là: "cán rìu đã mục nát

thành bụi" (Manche de cognee en poussìere). Cách phiên và chú này phù hợp với điển

"Vương Chất: người đời Tấn vào núi đốn củi, thấy hai đứa trẻ đang ngồi đánh cờ. Chất

bỏ rìu đứng xem. Khi xong ván cờ, Chất lấy rìu để về thì cán rìu đã mục nát về đến

nhà thì đã mấy trăm năm rồi, Chất lại trở vào núi rồi thành tiên"

Nhóm làm "NTTT" (tân biên) lại phiên là: "rêu bủi bủi", nghĩa là: rêu xanh đã

thành cát bụi. Hai câu 7, 8 mượn ý ở bài "Tái đáo Thiên Thai của Tào Đường". "Tái

đáo Thiên Thai phỏng ngọc Chân, Thương đài bạch thạch dĩ thành trần" (Lại đến

Thiên Thai hỏi nàng Ngọc Chân thì rêu xanh đã trắng thành cát bụi).

"Rìu bủi bủi" hay "rêu bủi bủi" thì cũng đều là lẽ vô thường của cuộc đời. Dù có

lánh khỏi bụi trần, thoát tục tìm tiên thì "rêu xanh đá trắng đã thành cát bụi" hay "cán

rìu đã mục nát" nào có "thấy tiên đâu" ?

Nếu phiên là "Lèo phơi phới" (lèo buồm thuyền đi xa tắp - Trần Văn Giáp); "rêu

phơi phới: chỉ thấy cửa động rêu xanh phơi phới" (Đào Duy Anh); hay "diều phơi

phới" (diều giấy bay phơi phới - Bùi Văn Nguyên) thì đều chưa thấy hết cách dụng

điển sâu sắc của Nguyễn Trãi. 37

Bài 150 có câu thơ: "Hột cải tình cờ được mũi kim", xưa nay, vẫn chú rằng: Chữ

Hán có câu: "Từ thạch dẫn châm, hổ phách thập giới"; nghĩa là "Nam châm thì hút

chiếc kim, hổ phách thì hút hột cải", ý này thường dùng để ví tính tình hợp nhau, tình

nghĩa gắn bó - ý nói: do duyên phận mà tình cờ gặp nhau.

"Đại Niết bàn kinh" có điển: "giới tử đầu châm": "ném hạt cải lên chín tầng trời

mà đáp đúng mũi kim" - ý nói sự kì diệu của duyên phận.

Câu thơ: "Hột cải tình cờ được mũi kim" chính là xuất phát từ điển: "giới tử đầu

châm". Truyện Kiều cũng có câu: "Cũng là phận cải duyên kim".

Giải được đúng điển thì câu thơ tự nhiên, sáng tỏ và có ý vị thâm trầm của triết

học.

Ngoài việc vận dụng các điển về Phật, về Nho, về Đạo, về Thương, Chu, Phạm

Lãi, Trương Lương, Đào Tiềm... "Vua nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn"... Nguyễn

Trãi còn vận dụng rất nhiều lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân (từ trong ca dao,

tục ngữ...) nên câu thơ, ý thơ thường giản dị mà sâu sắc.

Câu thơ "Kìa thừng nọ dai nào có đứt" (Bài 174), hay "Dợ nọ có dai nào có đứt"

(Bài 176) chính là xuất phát từ cách nói dân gian: "kia thẳng nọ dùi", hay: "Mình dùi

anh thẳng mình ơi, Mình dùi anh thẳng cả đời yêu nhau".

Bi kịch của cuộc đời Nguyễn Trãi là vậy, vẫn biết là "kia thẳng nọ đùi", vẫn biết

là "Thương Chu bạn cũ gác chưa đôi", và đã "Chỉn xá lui mà thủ phận", thế nhưng

nhiệt tâm yêu nước thương dân đêm ngày cuồn cuộn đã kéo Nguyễn Trãi khỏi chốn

"lâm tuyền" và sung sướng viết "Biểu tạ ơn", để rồi phải chịu cái chết thảm khốc.

Về việc chú giải còn có rất nhiều vấn đề khác nữa, chúng tôi tin rằng, ngoài chú

giải đã có trong sách, người đọc còn vận dụng kinh nghiệm, kiến thức của mình để liên

hệ đến ý tứ sâu xa của điển, đó là qui luật của quá trình tiếp nhận văn chương.

Theo Trần Ngọc Vương: "Nhưng đứng trước Quốc âm thi tập, chúng ta còn phải

hoang mang nhiều chỗ, vì nhiều lẽ. Trước hết, đó là công tác văn bản. Các chuyên gia

Hán Nôm còn chưa thống nhất về việc phiên âm ở nhiều từ ngữ. Việc xác định ngữ

nghĩa của Quốc âm thi tập đúng là một khoảng rộng rãi cho nhiều sai lầm chủ quan

được phép xuất hiện. Liệu chúng ta có "đồ chừng" tư tưởng tình cảm của Nguyễn Trãi

đi quá nhiều không, bởi ở những nhân vật như vậy, "sai một ly" là chệch "đi một dặm",

mà thời gian và biến cố đã quánh lại thành một lần võ quá rắn?..." [133: 738] 38

Từ ý kiến trên ta thấy việc phiên âm, chú giải là rất phức tạp. Phức tạp từ phương

diện ngữ âm lịch sử (tiếng Việt cách ta 5 thế kỷ), phức tạp từ phương diện hệ thống

(một từ có trong nhiều bài nhiều khi nghĩa chưa thống nhất); phức tạp từ phương diện

biến âm, phương ngữ (biến phụ âm đầu, lẫn lộn phương ngữ hiện nay và từ cổ...) và sự

rắc rối xuất phát từ chỗ một từ tự nó không tồn tại độc lập mà nó phải nằm trong cấu

trúc câu thơ, bài thơ - tức là liên quan đến niêm luật của bài thơ (đặc biệt khi từ đó

nằm trong câu ở vị trí đối ngẫu).v.v và v.v...

Chưa kể, QATT có cái khó của một văn bản đã từng bị thất lạc, rồi tìm kiếm, tìm

kiếm rồi thất lạc, rồi sao đi chép lại, rồi nét mờ chữ không rõ, rồi suy đoán, rồi tự ghi

theo ý mình... Còn thêm, người làm thơ như Nguyễn Trãi chắc chắn khi dùng từ phải

"thôi xao" biết bao nhiêu lần, nên người phiên nó, chú giải nó cũng phải "thôi xao" để

may ra giữ lại được giá trị nguyên thủy của một từ, một câu, và lôgic với cả bài.

Và chúng tôi, sau khi đi vào khảo cứu một số từ cổ, một số điển cố, chúng tôi

thấy rằng, việc hiểu ngôn ngữ QATT - tức là hiểu đúng các từ cổ, các điển cố là đã làm

cho câu thơ được hiểu đúng, được trở về với chính nó trong cái vẻ thâm trầm sâu sắc

của ngôn từ chữ nghĩa.

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn chương, ngôn ngữ QATT vừa là sự thú vị,

vừa là sự hấp dẫn và cũng vừa là sự thách thức đối với chúng tôi. Hiểu đúng một chữ,

hiểu đúng một câu thơ, hiểu đúng một bài thơ là đã làm cho văn bản đó trở nên rõ

ràng, mạch lạc, tinh tế.

Nhận thức vấn đề như vậy, nên chúng tôi đi vào "Một số vấn đề về văn bản

QATT" trước khi đi vào nghiên cứu thi pháp QATT ở các phương diện quan niệm nghệ

thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, thể loại,

nhịp điệu... tức là nghiên cứu sự thống nhất giữa hình thức và nội dung trong QATT.

39

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ

NÔM NGUYỄN TRÃI

2.1. NÉT KHU BIỆT CỦA THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN

TRÃI.

2.1.1. Thơ tiếng Việt của Nguyễn Trãi, là "hồn Đại Việt - giọng Hàn Thuyên", là

thơ nôm - là "nôm na" tiếng mẹ - tiếng của ruộng đồng, ca dao, tục ngữ, của "bè rau

muống" quê nhà.

Vậy thì đầu tiên nó phân biệt với thơ chữ Hán cũng của cùng tác giả, ở đây có

một hiện tượng song đôi thú vị: tất cả là thơ, là đứa con tinh thần của một con người,

một tâm hồn, nhưng tồn tại trong hai thứ ngữ khác nhau. Nó vừa là đồng nhất, vừa khu

biệt.

Hiện chúng ta còn 105 [134] bài thơ chữ Hán, không kể các bài phú, bài cáo -

một thứ văn xuôi có nhịp (prose rythmée), có thể xem như một thứ thơ văn xuôi.

Sự phân biệt đầu tiên, dễ thấy nhất là một đằng làm bằng tiếng Hán cổ - thứ chữ

của sách vở kinh truyện có đầu tiên trên "giáp cốt văn tự" đời Thương đời Chu và sau

đó là của Tứ thư, Ngũ Kinh, Chư tử, Hán Đường, Tống Nguyên... Người Việt tiếp

nhận chữ Hán có thể từ 3 thế kỷ trước Công nguyên lúc Triệu Đà chống nhà Hán và

thống trị cả vùng đất trên lãnh thổ ta. Ông cha ta học chữ Hán suốt trong hơn một

nghìn năm đó, có người đi thi, làm quan ở Trường an, để lại cả những tấc phẩm thơ

văn. Sang đời Lý, đời Trần, nhất là đời Trần, Hán học cực thịnh và Nguyễn Trãi chính

là đứa con tinh thần của nền Hán học cực thịnh đó: lên 6 tuổi, ông đã yêu sách: "Lục

tuế nhi đồng phả ái thư" (thơ Nguyễn Phi Khanh) và về sau ông là thầy dạy Hán học:

"Dạy láng giềng mấy sĩ nho" (bài 15), "Chẳng tài đâu xứng chức tiên sinh" (bài 7) và

hai mươi tuổi ông đỗ thái học sinh (Tiến sĩ), làm quan chấm thi (sơ khảo) kỳ thi Tiến sĩ

chữ Hán... Như vậy, Nguyễn Trãi là nhà Hán học khoa bảng, tiêu biểu, thông hiểu toàn

bộ kinh truyện, văn liệu, thi liệu của nền văn hoa Hán. Ông đã làm thơ trên thứ chữ đó:

một thứ "tử ngữ", một thứ chữ của "sách vở thánh hiền", được đọc theo âm Tràng an

vào thời Đường Tống (cuối thế kỷ 9 - thế kỉ 10).

Tồn tại trong một cái vỏ ngôn ngữ như thế, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi lại bị

chế ước bởi những thi pháp của thơ Đường luật nói riêng và thơ cổ Trung Hoa nói 40

chung. Đó là một dòng thơ vĩ đại, được hình thành qua kết tinh của một diễn biến lịch

sử dài lâu, bắt đầu từ Kinh Thi.

Nét đặc trưng của thi pháp thơ Đường là: "Nếu đứng ở góc độ hệ thống thi pháp

mà xét thì thơ Đường có hai "kiểu" quan niệm nghệ thuật về con người chủ yếu: thể

hiện con người vũ trụ bằng quan hệ tương giao thống nhất và phản ánh con người khoa

học chủ yếu bằng quan hệ đối lập tương phản" [46: 265]

"Không gian, thời gian trong thơ Đường là không gian thời gian trong tâm thức

thi nhân đời Đường. Quan niệm thời gian không gian ấy đã tạo thành những biểu trưng

và hình thức biểu hiện đặc trưng giàu sức sống, có ảnh hưởng lâu dài không chỉ đối

với thi ca Trung Quốc, mà còn ảnh hưởng sâu đậm trong sáng tác thi ca chữ Hán và

chữ Nôm tiếng Việt. Nghệ thuật thơ Đường không chỉ biểu hiện ở không gian, thời

gian, nhưng hai phạm trù này có ảnh hưởng chi phối tới nhiều bình diện khác", [106:

31]

Thơ Đường "trở thành đỉnh của thơ ca c ổ điển bởi tính phong phú và đa dạng

cũng như bởi những sự tìm tòi về phương diện hình thức... Dưới triều Đường, tất cả

các thể loại và hình thức thơ ca đều được xem xét và được luật hoa. Những thể loại và

hình thức đó vẫn duy trì y nguyên cho đến đâu thế kỷ này..."(Fran,cois Cheng - Pháp,

Nguyễn Khắc Phi dịch) [106: 105]

Nguyễn Trãi và các nhà thơ cổ làm thơ bằng chữ Hán tiếp nhận hệ thi pháp này.

Sự đối lập của hệ thi pháp thơ chữ Hán Đường luật và hệ thi pháp thơ Nôm (Hàn

luật) là đương nhiên. Nhưng sự tiếp biến (acculturation) cũng là lẽ đương nhiên, vì cái

cây Đường luật chữ Hán "đã được bứng trồng" (transplantation - chữ dùng của

D.X.Likhatrốp)(

1

) trên đất Việt.

Vấn đề này là một vấn đề lớn, vượt ra ngoài khuôn khổ khảo sát của luận án,

chúng tôi chỉ xin nêu một vài nhận xét tiêu biểu:

Trước tiên về mặt từ ngữ: Một tiếng Hán (cổ) vừa là danh từ, vừa có thể kiêm

chức năng một động từ (động từ trí sử). Đó là mặt mạnh của tiếng Hán:

"Độ đầu xuân thảo lục như yên" (Trại đầu xuân độ - Nguyễn Trãi)

"Xuân phong hựu lục Giang Nam ngạn" (Đường thi).

(1) Theo Riptin B.L. Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phương Đông

theo phương pháp loại hình. TCVH, số 4/1974. 41

Ngữ pháp Hán cổ cho phép tỉnh lược tất cả các hư tự cho nên câu thơ cổ là câu

thơ có tính kí hiệu và tính tượng trưng cao nhất:

"Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt

Bá Nhân say lệ Tấn sơn hà"

(Tử Mỹ cô trung với nhật nguyệt nhà Đường

Bá Nhân ứa hai hàng nước mắt khóc non sông nhà Tấn)

Hệ thi pháp thơ Đường cũng là hệ ngữ pháp độc, cô (độc và cô và không có liên

quan đến tư tưởng triết học và mỹ học cổ: sự đối lập của con người và vũ trụ - xã hội,

sự thừa nhận thuyết tính không của triết học Phật giáo Thiền tông). Đó là những nét

khu biệt của thi pháp thơ chữ Hán Đường luật mà thơ Việt Hàn luật sẽ không có hoặc

không ưa sử dụng. Ngược lại, thơ Việt Nguyễn Trãi dùng cách nói của dân gian - của

hệ từ vựng cơ bản tiếng Việt, cố gắng thoát ly khỏi cách dùng chữ Hán nguyên gốc:

- "Dấu người đi la đá mòn" (Bài 21)

- "Nẻo có ăn thì có lo" (Bài 20)

- "Vị chúng thằng chài chác cá tươi" (Bài 76)

- "Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang" (Bài 129)

- "Trung hiếu cương thường lòng đỏ" (Bài 187)...

2.1.2. Điểm khu biệt thứ hai, là sự khu biệt và đồng dạng về phong cách, bao

gồm cả không gian, thời gian, giọng điệu... giữa thơ chữ Hán và thơ Nôm Nguyễn

Trãi.

Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi kế thừa phong cốt thơ đời Trần ở cái phần hào mại,

phóng khoáng: "Nguyễn Trãi "giữ lại" nét hào hùng, kiên nghị, khí phách của các nhà

thơ thời chống quân Nguyên thế kỷ XIII, Nguyễn Trãi cũng "giữ lại" tính triết lý sâu

sắc mà phóng khoáng, táo bạo của tinh thần Thiền đời thịnh Trần, đồng thời với sự tiếp

thu nét ưu tư, thương dân, băn khoăn về trách nhiệm kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần

mà nổi bật hơn cả là Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi Khanh" [133: 425]. Vả lại, thư

chữ Hán có nhiều bài làm lúc ông đang chiến đấu hoặc đang "thuận", nên phong cách

và giọng điệu hoành tráng - cao cả. Đó là những bài tiêu biểu như Bạch Đằng hải

khẩu, Quá hải, Quan hải, Vân đồn...

42

- "Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,

...Hào kiệt công danh thử địa tằng" (Bạch Đằng hải khẩu)

(Tuy bài này làm sau khi dẹp xong giặc Minh, nhưng ý hào mại, phong cách

hoành tráng cao cả vẫn là phong cách chủ đạo).

- "Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ

Tráng hoài hô khởi bán phàm phong" (Quá hải)

- "Thung mộc trùng trùng hải lãng tiến" (Quan hải)

- "Lộ nhập Vân đồn san phục san" (Vân đồn)

Phong cách này phù hợp với phong cách Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú...

nghĩa là phong cách "hùng văn", "sử thi".

Tuy nhiên, ngay trong thơ chữ Hán thì vẫn tồn tại phong cách thơ "thế sự" - "than

thở" - "sầu muộn"...; chẳng hạn các bài: Oan thán, Vãn lập, Họa hương tiên sinh, vận

giản chư đồng chí...

Trong khi đó, thơ Nôm, làm phần lớn lúc cuối đời, lúc ở ẩn... lại không hề có

những bài phóng khoáng, chí khí, hào mại... như thế, mà phổ biến là phong cách thơ

thế sự - nhân tình, "cày nhàn câu vắng", "cô độc tịch liêu" và thơ "đạo lý". Ví dụ:

- "Dưới công đanh đeo khổ nhục,

Trong dại dột có phong lưu" (Bài số 3)

- "Giang sơn đường cách ngàn dặm,

Sự nghiệp buồn đêm trống ba" (Bài 94)

- "Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh" (Bài 136)

Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã dùng lại một thể loại đã chết của thời

Ân Thương xa xôi và đưa vào một nội dung hoàn toàn mới - ở nhiều đoạn tả chiến trận

hay tội ác quân giặc, phong cách hoành tráng - sử thi thể hiện rất rõ. Chí Linh sơn phú

cũng vậy.

Phong cách cũng là giọng điệu. Giọng điệu là một phạm trù nội dung - hình thức,

hình thức - nội dung; nó là một phạm trù trung gian, chan hòa nội dung - hình thức;

chủ yếu biểu hiện tình cảm, cảm hứng, cách cảm xúc, cái nhìn của tác giả. Sự vang dội

của cuộc đời vào tâm hồn tạo nên giọng điệu. Có giọng điệu buồn, vui, cay đắng, 43

khích liệt, phóng khoáng, thở than, nao lòng, ngạo nghễ nhạo đời, "cười ra nước mắt",

giọng than, giọng trầm thống, phiêu dật... chủ yếu bắt nguồn từ cảm xúc cụ thể từng

bài và từ cảm hứng chủ đạo của tác giả trước hiện thực.

Thơ Nôm của Nguyễn Trãi có một giọng điệu như thế nào?

Trước hết, đó không phải là giọng vui, hùng tráng, như thơ của người anh hùng

"cánh chim bằng trên bể Bắc", người đứng trên đỉnh cao chiến đấu và chiến thắng

chống quân Minh thuở nào. "Quan hà bách nhị do thiên thiết, Hào kiệt công danh thử

địa tằng" (Cửa sông hiểm yếu, trời xây dựng. Hào kiệt công danh, đất lẫy lừng - Bạch

Đằng hải khẩu)...

Nay là một giai đoạn khác. Phù hợp với nó là giọng than thở, buồn đau, lo lắng,

phân vân, cao khiết... nhưng không tuyệt vọng. Và đôi lúc có cả giọng trào lộng

(không có ở thơ chữ Hán) và giọng Thiền - Đạo gia - nghĩa là siêu thoát, tịch tĩnh...

Giọng thế sự:

"Sự thế dữ lành ai hỏi đến

Bảo rằng ông đã điếc hai tai"

Giọng thanh sạch:

"Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Ngày vắng xem hoa bợ cây"

Giọng Thiền:

"Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy",

... "ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế"

Giọng trào lộng, u mua:

- "Vừa sáu mươi dư tám chín thu

Lưng cày da xẻ tướng lù khù"

- "No nước uống, thiếu cơm ăn" (Thủ vĩ ngâm)

"Rảng rảng người rằng chuông ấy thạch,

Đóng thời cũng có tiếng công công" (Bài 61)

Giọng bực bội:

"Dễ hay ruột bể sâu cạn

Khôn biết lòng người vắn dài 44

Sự thế dữ lành ai hỏi đến

Bảo rằng ông đã điếc hai tai" (Bài 6)

Giọng răn đời, trách đời, đau đời, chán ngán:

"Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn

Lòng người quanh nữa nước non quanh" (Bài 136)

- "Một phen bạn đến còn đằm thắm

Hai bữa mừng nhau một mặt không" (Bài 6)

Vượt lên tất cả vẫn là tấc lòng ưu ái, bình tĩnh trước thế sự:

- "Mựa trách thế gian lòng đạm bạc

Thế gian đạm bạc đấy lòng thường" (bài 125)

- "Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông" (Bài 50)

Giọng điệu răn đời, trách đời đi đôi với đau đời là một loại giọng điệu và đây

phải chăng là giọng điệu chủ đạo của thơ Nôm Nguyễn Trãi. Thơ chữ Hán Nguyễn

Trãi có giọng điệu này, nhưng ít hơn. Giọng điệu tràn ngập trong tập thơ này là một

giọng điệu hiền triết, một giọng điệu "kẻ cả", giọng điệu của người thấu hiểu và đại

diện cho lẽ phải.

Giọng điệu bi thương, đau buồn, thở than cũng là một âm hưởng chính.

Đặc biệt là giọng điệu trào lộng, tuy có ít, nhưng đây là một giọng điệu hiếm thấy

và đặc sắc. Có người nào đó đã nói rằng người biết trào lộng là người có trái tim nhân

hậu. Ông tự hào, tự diễu mình: "Lưng gầy da xẻ tướng lù khù". Phải đợi đến mấy thế

kỷ sau - cuối thế kỷ 19, văn học Việt Nam mới có một giọng điệu trào lộng - đại tự

trào - Đó là Tú Xương, một nhà thơ trào phúng với một giọng thơ châm biếm gay gắt,

quyết liệt và dữ dội. Giọng thơ ấy thể hiện một tâm trạng uất ức, một thái độ căm ghét,

khinh bỉ của nhà thơ với hiện thực xã hội lúc bấy giờ..., ví dụ: "Chữ y, chữ chiểu

không phê đến, Ông chỉ quen phê một chữ tiền", hoặc "Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,

Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng"...

Giọng điệu trữ tình, đằm thắm, vụt xuất hiện trong cung bậc hào hùng của những

Bình Ngô, Quan hải, Bạch Đằng... là một giọng điệu lạ. Nhưng không phải chỉ lạ mà 45

hay, mà hiện đại, nhờ vào chất liệu tiếng Việt bền bỉ đậm đà của hồn Việt tươi mát đến

tận bây giờ:

"Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng

Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng

Ngoài ấy dầu còn áo lẻ

Cả lòng mượn lấy đắp cho cùng" (Bài 208)

Có thể nghĩ rằng lời thơ trùng khít với việc bà Nguyễn Thị Lộ đi làm Lễ nghi nữ

học sĩ trong cung vua, còn ông thì ở ngoài Côn Sơn... giữ chùa ("Đề cử Côn Sơn tự")

giữa cách xa không gian, nhà thơ "mạo muội" ướm hỏi (một thái độ nâng niu, tế nhị)

người nữ (ở lầu hồng sang trọng) rằng: đấy "đầm ấm" vậy có thương cho kẻ lạnh lùng

đây? Ngoài ấy (để đối với trong này) dầu cho chỉ còn có áo lẻ (áo đơn) thôi - chữ lẻ là

lẻ chiếc ở vào câu thơ rất ý vị - thì cả lòng (lẻ đối với cả) đem ra mà đắp... cho đỡ nhớ,

cho đỡ lạnh lùng!

Chiếc áo - vật "lưu niệm", vật "để dành hơi", "vật dẫn" cho tình ái luôn luôn là

một môtip của ca dao: "bỏ quên chiếc áo - áo anh sứt chỉ đường tà...", cùng với giọng

điệu "si tình" tự thú nhận lòng yêu phi đại trượng phu – mà như một người thường -

như một anh trai làng nào đó trong ca dao, làm chúng ta thương mến quá!

Thơ tình tiếng Việt có một bài thơ như thế vào thế kỷ 15, mà tác giả lại là người

anh hùng, bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi thì thật là niềm vui lớn không chỉ cho thơ, mà là

cho Con Người!

2.1.3. Một điểm đặc biệt bao trùm nữa ở đây về mặt thi pháp là: trong thơ

Nguyễn Trãi hòa quyện ba thứ triết học, mỹ học khác nhau - truyền thống hòa đồng

tam giáo thời Trần và tương ứng với ba thứ triết học mỹ học ấy là ba hệ thi pháp khác

nhau. "Trong cả cuộc đời, khi còn chống Minh cũng như khi đã làm quan trong triều

đình, bao giờ Nguyễn Trãi cũng coi Nho giáo là đạo lí chính, nhưng tư tưởng Nho giáo

cũng không bao giờ độc chiếm tâm hồn ông. Từng thời gian, từng phạm vi khác nhau,

bên cạnh Nho giáo bao giờ cũng có một cái gì khác thường là trái với Nho giáo, hoặc

là tư tưởng quyền mưu, hoặc là tư tưởng Lão - Trang, hoặc là nếp sống theo truyền

thống dân tộc. Thành phần phụ gia đó làm cho tư tưởng của ông thành đa dạng, phong

phú và trở thành gần gũi với chúng ta hơn nhiều. Nếu hình dung Nho giáo là một

đường thẳng thì tư tưởng Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn 46

quanh, không bao giờ trùng mà cũng không bao giờ quá xa đường thẳng. Đó là một sự

lựa chọn, Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho dân tộc" [58: 116].

Nghiên cứu Nguyễn Trãi, nhiều người cho rằng, căn bản Nguyễn Trãi là nhà nho,

thậm chí là nhà nho nhất, nhà nho điển hình trong các nhà nho Việt Nam, nhưng cũng

thấy được ảnh hưởng của Đạo gia và Phật gia trong cảm hứng và trong thi pháp thơ

chữ Hán và thơ Nôm của Ức Trai (Lã Nhâm Thìn, Nguyễn Hữu Sơn).

Nghiên cứu QATT của Nguyễn Trãi, tác giả sách "Văn học Việt Nam, dòng riêng

giữa nguồn chung" [149] thấy nổi bật quan hệ giữa nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ: 1. nhà

tư tưởng phát ngôn và hành động cho đạo Nho, nhà nghệ sĩ mang nặng nỗi ưu đời mẫn

thế; 2. nhà tư tưởng của triết học Lão - Trang và người nghệ sĩ ca tụng thú thanh nhàn,

hòa mình vào tạo vật; 3. sự thống nhất giữa các mâu thuẫn hay ý nghĩa của bi kịch

Nguyễn Trãi. Tác giả còn cho rằng, với tư cách là nhà tư tưởng, định hướng cơ bản

nhất, trục chính của tư tưởng Nguyễn Trãi là Nho giáo, không những thế ông còn là

nhà tư tưởng Nho giáo quan trọng nhất trong lịch sử Nho giáo ở Việt Nam. Tư tưởng

Lão - Trang, đặc biệt là tư tưởng Trang tử, có ảnh hưởng tới Nguyễn Trãi khá hiển

nhiên. Ảnh hưởng của Phật giáo nói chung, của Thiền tông nói riêng, đối với Nguyễn

Trãi không thật rõ ràng và có sức nặng đáng kể.

Triết học Nho là một mỹ học nhập thế, một triết học trách nhiệm và nghĩa vụ, với

đạo Nhân, đạo Nghĩa... Thơ Nho đã tồn tại 10 thế kỷ ở Việt Nam, tạo thành một mỹ

học lâu đời, bền vững với những đặc trưng nổi bật. Đó là "trung hiếu", "nhân ái", "vua

cha", đạo quân thân, lẽ cương thường... Hệ từ ngữ mỹ học này đi thẳng vào thơ

Nguyễn Trãi.

Và điều này hoàn toàn trùng khít với mỹ học Nho trong thơ chữ Hán.

Nhưng còn sự có mặt của hệ thống mỹ học - mỹ học Thiền trong thơ Nguyễn

Trãi. Và tương ứng với nó là một hệ thi pháp với những đặc trưng thơ Thiền, thơ Thiền

là sản phẩm của một triết học lấy "vô ngôn", "bất lập văn tự", "không hư", "vô

thường", "tịch tĩnh", "nhất như" (nát bàn)... làm cơ sở và điều đó phản ánh một cách

trực tiếp vào thơ - vào hệ thi pháp của thơ Nguyễn Trãi. Bài thơ chữ Hán Du sơn tự

nêu lên cái "không tịch" và "vô ngôn" hệ thi pháp Thiền tông:

"Đoản trạo hệ tà dương,

Thông thông yết thượng phương. 47

Vân quy, thiền tháp lãnh;

Hoa lạc, giản lưu hương.

Nhật mộ viên thanh cấp,

Sơn không trúc ảnh trường.

Cá trung chân hữu ý,

Dục ngữ hốt hoàn vong"

(Chèo ngắn buộc bóng xế,

Vội lên viếng Phật đài.

Mây về giường sư lạnh,

Hoa rụng suối hương trôi.

Chiều tối vượn kêu gấp,

Núi quang bóng trúc dài.

Cảnh này thật hữu ý,

Muốn nói bỗng quên rồi) [134: 29, 30]

Dục ngữ hốt hoàn vong; vong ngôn (quên đời, quên lời, quên tất cả: vong thân

vong thế dĩ đô vong (Huyền Quang) là đặc trưng cơ bản của hệ thi pháp Thiền. Trong

thơ Hán của ông còn nhiều bài diễn đạt hệ thi pháp này như:

"Môn tiền nhất phái Tào khê thủy

Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần

Và được ông dịch là:

"Tào khê rửa ngàn tầm suối

Sạch không còn một chút phàm".

Thính vũ cũng có dáng dấp một bài thơ Thiền. Trong thơ Nôm thì bài Mộc cận là

bài tiêu biểu cho cái hệ thống thi pháp Thiền nhất:

"Ánh nước hoa in một đóa hồng

Vẩn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng

Chiều mai nở chiều hôm rụng

Sự lạ cho hay tuyệt sắc không" 48

Bài thơ tả một đóa hoa, nhưng đây là một đóa hoa được phản chiếu (in) trong mặt

nước. Bản chất của nó là bản chất "vô thường": sớm nở tối tàn. Nhưng nó là biểu hiện

cái tâm Phật "Bụt là lòng", là thanh tịnh, thuần thành: "vẩn nhơ chẳng bén". Và đó là

một "sự lạ": bóng hoa là một minh chứng cho thuyết "sắc không" của Phật.

Các từ, các hình ảnh dùng trong bài trực tiếp nói lên triết học Thiền. Mặt phẳng

mỹ học - nếu ta có thể dùng một thuật ngữ như thế - ở đây bao gồm trong nó hai thực

thể đối nhau: một đóa hoa ở trên mặt nước và nước - mặt phẳng mới. Có thể lập một

sơ đồ như sau để thấy rõ hơn biểu hiện của thi pháp Thiền:

Theo Trần Ngọc Ninh [104] thì cả ngữ pháp "thi thước" (mêtre) và "thi điệu"

(melodie) của bài thơ cũng biểu hiện những bước đi của tư tưởng mỹ học Thiền. "Từ

câu 1 đến câu cuối cùng, bài thơ đưa ta đi từng đợt, từ cái đẹp của cảnh đến cái chân lý

của cuộc đời. Có một điều cũng vẫn còn chưa rõ: không biết tác giả có mượn cái ảnh

hoa mà nói về một bóng hồng nào khác, mà cuộc sống mỏng manh đã bị cướp đi trong

một sớm một chiều hay không? Đứng hoàn toàn về khía cạnh thi ca, thì dầu bài thơ có

ẩn tình hay không có, ta cũng phải nhận rằng chỉ trong có bốn câu mà tác giả mở rộng

được cả một chân trời triết lý bao la" [104: 15].

Không chỉ có mặt mỹ học nho, mỹ học Thiền, trong thơ Nguyễn Trãi, cả thư Hán

và thơ Nôm - có mặt những tư tưởng và thi pháp đạo gia: Khi Nguyễn Trãi viết:

"Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư,

Giác lai vạn sự tổng thành hư". (Ngẫu thành - bài 9)

Hay:

"Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy,

Mộng ky hoàng hạc thướng tiên đàn" (Mộng sơn trung - bài 7) 49

Thì ta thấy cái tinh thần Đạo gia: cái tinh thần coi cuộc đời như giấc mộng, tất cả là

"hư không", cái tinh thần muốn cỡi hạc lên tiên (Đạo gia và Tiên với Tây vương mẫu,

với Thái thượng lão quân là những sản phẩm sau này, một biến tướng của hệ thống

triết mỹ Lão - Trang nguyên thủy) thể hiện rất rõ.

Còn trong thơ Nôm, thì những dấu vết của hệ thi pháp này chi phối các bài thơ

như:

"Thương Lang mấy khảm một thuyền câu,

Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu.

Nguyệt mọc đầu non kình dội tiếng,

Khói tan mặt nước thận không lầu.

Giang sơn dạm được đồ hai bức,

Thế giới đông nên ngọc một bầu.

Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa,

Vui xưa chẳng quản đeo âu" (Bài 19)

Như vậy là, cả 3 thi pháp lớn tương ứng với ba triết học, ba mỹ học lớn của

phương Đông, của Việt Nam có mặt trong thi pháp thơ Nguyễn Trãi. Và đó có thể xem

là một trường hợp đặc thù của thi pháp văn học Việt nam trung đại. Đặc thù nhưng

không phải là duy nhất. Như một thiên tài khác và cũng là một thiên tài mẹ (génie -

mère) khác của ba thế kỷ sau cho thấy; cả ba triết học, ba mỹ học, ba thi pháp ấy dù có

mặt trong những đỉnh cao chói lọi của văn học, trong truyện Kiều, trong Lương Chiêu

minh thái lử phân kinh thạch đài: "Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa... Ngã độc Kim

cương thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh. Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ,

tài tri vô tư thị chân kinh" và đặc biệt về Phật, Đạo gia và mỹ học Đạo gia thì nó đã

biến thành nhân vật, thành Tam hợp đạo cô, thành Giác Duyên.

2.2. THI PHÁP VỀ CÁI HÀNG NGÀY.

Lựa chọn giữa hai lẽ "xuất - xử", Nguyễn Trãi tìm đến với thiên nhiên, coi thiên

nhiên là bạn để tự do dốc bầu tâm sự "đau đời, thất thế" của mình. Thời trung đại, ở

Việt Nam các học thuyết từ Dịch học đến Tam giáo đồng nguyên đều coi thế giới là

thống nhất và con người chỉ là một phần tử trong đó. Con người hòa nhập vào vũ trụ,

vào thiên nhiên: "Thiên nhân hợp nhất". Con người cảm nhận bốn mùa theo nhịp đập 50

của trái tim và sự tuần hoàn của cơ thể, dưỡng sinh theo phép tắc vận hành của trời

đất: Xuân "sinh", Hạ "trưởng", Thu "thu", Đông "tàng".

"Con người là sản vật của thiên nhiên". Con người là "một hệ thống mở", mọi

hoạt động sinh mệnh đều tác động qua lại với môi trường bên ngoài. Sinh mệnh con

người là sự tổng hòa của vô vàn tác nhân vũ trụ. Trạng thái cân bằng hài hòa đó, chính

là cảnh giới mà các triết gia phương Đông thời cổ đại vẫn gọi là "Thiên nhân hợp

nhất", là "Thiên nhân cảm ứng" [57].

Tư tưởng "thiên nhân hợp nhất" là tư tưởng chủ đạo, quán xuyến trong toàn bộ

thi ca trung đại. Cảm xúc của thi nhân có sự góp mặt của "phong, hoa, tuyết, nguyệt,

mây, gió, trời, sông", bất cứ thi nhân nào cũng mượn "tùng, cúc trúc mai"... để bày tỏ

chí khí cứng cỏi, giá trị rường cột của mình với triều đình, quốc gia. Trước Nguyễn

Trãi, thi ca thời Lý - Trần đã để lại cho đời những vần thơ giàu xúc cảm trước một

thiên nhiên tĩnh lặng, diệu kỳ, một thiên nhiên có linh hồn bởi xúc cảm của nhà thơ

"thổi" vào đó.

"Tham nhàn lánh đến giang sơn", Nguyễn Trãi cũng tìm đến người bạn thiên

nhiên để giải bày, tâm sự... Với thiên nhiên thi nhân vừa là khách, vừa là nhân vật

trung tâm, vừa đứng ở ngoài để quan sát, vừa hòa nhập vào và tìm thấy mình ở trong

đó. Tác giả mở màn, đột phá vào lòng dân tộc với những cảm xúc mới lạ, sâu sắc.

Trước một "Ba tiêu" có sức sống mãnh liệt: "Tự bén hơi xuân tốt lại thêm", với mùi

thơm nhiệm màu: "Đầy buồng lạ màu thâu đêm" là cả một tấm lòng của tác giả: "Tình

thư một bức phong còn kín".

Ý thức trở về cội nguồn dân tộc, về với đời sống nhân dân vốn đã bắt nguồn từ

ngày vào đời, từ buổi ra đi tìm đường cứu nước giúp dân. Như người con cần tìm về

với Mẹ, về với thiên nhiên và cuộc sống đời thường của cộng đồng rộng lớn, bỗng

nhiên Nguyễn Trãi như cất được gánh nặng "ẩn ức thế sự" đang đè nặng lòng mình.

Tâm trí ông bỗng trở nên thư giãn, thanh thoát và lai láng hồn thơ. Ngòi bút từng "viết

thư thảo hịch", "sắc như gươm dao" nay lại thấm đẫm chất lãng mạn và si tình với cỏ

cây, cảnh vật:

- "Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi

Hầu chất so le khóm cuối làng" (Ngôn chí, 9)

51

- "Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dõi cầm ve lầu tịch dương" (Bảo kính cảnh giới, 170)

"Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt

Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng" (Bảo kính cảnh giới, 199)

"Thơ ca là sự kết tinh của tình cảm" [31], tình cảm ấy lúc biểu hiện thì ở mỗi nhà

thơ có một nét riêng. Thiên nhiên trong QATT không u trầm nhàn dật hoặc cao xa vời

vợi như trong thi ca viết bằng chữ Hán; ông để lòng mình rung động trước không gian

bình dị của làng quê Việt Nam - một không gian vốn quen thuộc với tâm hồn đại

chúng Việt Nam qua thơ ca bình dân.

Cho nên một đặc trưng lớn khác, có thể nói là đặc trưng bao trùm lên trên tất cả -

cái làm nên sự khu biệt lớn nhất của thơ chữ Hán trong toàn bộ nền thơ đương thời và

cả sau đó nữa, là thi pháp thơ nôm Nguyễn Trãi cho thấy cái hàng ngày, cho thấy mỹ

học của cái hàng ngày lần đầu tiên xuất hiện trong thơ, tạo thành một cột mốc vĩ đại

trong tư duy thơ nhiều thế kỷ.

Như ta đã biết, thơ Việt (tất nhiên là thơ chữ Hán) đã hình thành từ thế kỷ thứ 10

với những bài thơ đầu tiên là những bài kệ (có tính chất tóm tắt triết lí Phật giáo),

những bài thơ có chức năng tôn giáo, những bài sấm truyền, giảng đạo. Thơ lúc ấy là

thơ chức năng. Gần hai thế kỉ sau, mới bắt đầu xuất hiện thơ lấy thơ làm mục đích

"Vạn lý thanh giang vạn lý thiên, Nhất thôn tang giá nhất thôn yên, Ngư ông thụy

trước vô nhân hoán, Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền". (Ngư nhàn - Không Lộ) (Vạn

dặm sông xanh, trời vạn dặm, Từng miền dầu ruối, khói quanh miền, Ông chài ngon

giấc không ai gọi, Tỉnh dậy sau trưa, tuyết ngậm thuyền - Bản dịch của Nam Trân ).

Tuy đã có dâu, ruối (những sản vật Việt Nam) đi vào thơ, nhưng bài thơ lại cho thấy

nhà thơ chịu ảnh hưởng của thơ Trung Quốc, "sẵn sàng nói đến tuyết, trong khi ở Việt

Nam không có". Hai thế kỷ sau đó là thơ trữ tình - triết lý, một thể loại thơ phát triển

cho đến cuối thế kỷ 13 - 14 với những chủ đề càng ngày càng gắn liền với xã hội.

Những bài thơ như Cáo tật thị chúng của Mãn Giác, của Quảng Nghiêm... rất tiêu biểu

cho loại thơ này. Thế kỷ 13 - 14 có thể xem là giai đoạn trung đại chính - tiêu biểu cho

văn học Việt Nam ở thể loại, trong thơ xuất hiện người dũng sĩ bảo vệ Tổ quốc (cầm

giáo giữ non sông...) và sau đó là những mâu thuẫn trong tâm hồn vì ưu tư (thơ Trần 52

Nghệ Tông), vì phân cực xã hội (thơ Chu Đường Anh, Trần Nguyên Đán), và bên cạnh

đó là thơ thiền của các vua Trần, của Huyền Quang, Tuệ Trung...

Tất cả đều là thơ c ủa tăng lữ, quý tộc và quãng sau là thơ của nho sĩ - quý tộc.

Tất cả đều là thơ theo phong cách cao cả.

Chỉ duy đến Nguyễn Trãi, thì không những dùng tiếng Việt, nhờ vào tinh thần

dân tộc, "về nguồn" mà ông đã tạo dựng nên những câu thơ:

- "Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn

Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn" (Thủ vĩ ngâm)

- "Tả lòng thanh, vị núc nác

Vun đất ải, luống mùng tơi" (Ngôn chí, 10)

- "Muối lẫn dưa dầu đủ bữa"(tự thán, 104)

- "Ao quan thả gửi hai bè muống

Đất bụt nương nhờ một luống mùng" (Thuật hứng, 68)

- "Kể ngày con nước toan triều rặc,

Vị chúng thằng chài chác cá tươi" (Bài 76, QATT)...

Tất cả những "vật mọn" ấy, tượng trưng cho cuộc sống hàng ngày, cuộc sống

bình dân của những con người thường ấy dám đi vào thơ và ở lại với thơ để làm nên

cơ sở của một nền mĩ học Việt Nam - một thi pháp của cái bình thường - cái hàng ngày

- cái dân tộc... Nguyễn Trãi là người đã cống hiến cho văn hiến Đại Việt, là người

đứng đầu nguồn văn hóa thời đại, là người cùng "manh lệ" chiến đấu và sau đó nêu

cao lý tưởng "trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận oán sầu", tạo nên

trường phái tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai trong triết học và mĩ học theo nhận định

của N.I.Nhikulin (

1

), Nguyễn Trãi có đủ cơ sở lịch sử, thẩm mĩ, tài năng để làm nên

bước đột phá cho mĩ học và thi pháp.

Như chúng ta đã biết, với chủ nghĩa hiện thực, con đường lớn nhất, (tuy không

phải duy nhất) của văn học, không có cái hàng ngày, cái nhỏ mọn ("tiểu thuyết"),

không có cuộc sống thực thì sẽ không có một nền văn học đích thực. Những hình thái

của bản thân cuộc sống luôn luôn là những cội nguồn ưu trội nhất của văn học. Trong

(1) Văn học Việt Nam, tiểu luận tóm tắt, Nxb khoa học Maxcơva, Tài liệu giảng dạy sau đại

học, Phòng nghiên cứu khoa học sau đại học, trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1988,

trang 26. 53

thế kỷ XV, do chịu ảnh hưởng của chính cuộc sống, và cũng có thể do ảnh hưởng của

văn chương Trung Hoa mà đặc biệt là thi hào Đỗ Phủ (mà ông nhiều lần nhắc đến:

Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ, Sầu nặng Thiếu Lăng biên trắng...) một thi hào tiêu

biểu nhất cho chủ nghĩa hiện thực sớm - giai đoạn mà theo viện sĩ Cônrat là giai đoạn

của thời đại Phục hưng phương Đông... (Phương Đông và phương Tây (những vấn đề

triết học, triết học lịch sử - văn học Đông và Tây, Nxb GD, 1996, người dịch: Trịnh Bá

Đĩnh) mà Nguyễn Trãi đã có một bước tiến lịch sử như vậy.

Bốn thế kỷ sau, Nguyễn Du dầu vĩ đại và hiện thực hơn ở nhiều phương diện,

nhưng về phương diện này, như Chế Lan Viên đã có lần nhận xét, Nguyễn Du không

nói đến cây tre, rơm rạ... quê mình mà nói liễu, nói tuyết, vì mượn Thanh Tâm tài nhân

Trung Hoa.

Dĩ nhiên, Nguyễn Trãi đã không đi hết con đường mỹ học này: ông vừa là nhà

thơ của thi pháp trung đại với những tùng, cúc, với những ước lệ, tượng trưng, với

những trung, hiếu, tiết nghĩa... những đặc thù của thi pháp văn học trung đại mà không

dễ dàng văn học từ giã nó một sớm một chiều.

Nguyễn Trãi đã đạt đến sự vĩ đại của một bậc vĩ nhân khi đưa vào thơ của mình

cái bình thường của cuộc sống - và Nguyễn Trãi đưa cái hàng ngày vào thơ từ con vằn,

con vện, ao rau muống, luống mùng tơi... càng chứng tỏ nhà thơ đã rất xúc động. Khi

nào hiện thực đó thực sự xúc động mới đi vào thơ ca, đây là đặc điểm của thơ trữ tình.

Hình tượng về thơ là hình tượng có tính quan niệm, chứ không phải ở cảnh và người

mà người ta nhìn thấy.

Kế thừa thơ ca dân gian, Nguyễn Trãi đã mở ra cho thi ca bác học con đường trở

về với cội nguồn, trở về với dân tộc bằng những câu thơ viết về cái hàng ngày. Việc

làm này tuy bình thường, giản dị, nhưng lại vô cùng vĩ đại. Hơn 3 thế kỷ sau, các nhà

thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... đã kế thừa và tạo đà cho thi ca

truyền thống đạt đến đỉnh cao của giá trị nhân bản. Lịch sử ghi công đầu cho Nguyễn

Trãi, khi nhà thơ viết về cái hàng ngày bằng tiếng mẹ đẻ.

Nhà thơ lớn khi họ nhìn thấy trong những cái giản dị bình thường những ý tưởng

vĩ đại, và tâm hồn của họ vượt lên cái đã có của những người đi trước sáng tạo cho

mình một thế giới thi ca - về với cội nguồn, về với nhân dân, về với dân tộc. 54

2.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ

THUẬT.

Con người thường không thấy thời gian tồn tại, mà thấy không gian đang vận

hành. Thời gian khách quan theo chiều tuyến tính. Không gian thì có nhiều chiều, con

người thường đi lại với không gian, không đi lại với thời gian. Lịch sử theo thời gian

khách quan: hôm qua, hôm nay và ngày mai... Thi pháp thì không phải như vậy: ba

năm ngắn hơn một ngày, một ngày dài hơn ba thu... vừa tôn trọng thời gian khách

quan, vừa không tôn trọng thời gian khách quan. Các nhà nghệ thuật thường hay xen

kẻ quá khứ và vị lai, đang nói hiện tại lại quay về quá khứ. Không gian và thời gian

trong văn học nghệ thuật không phải là những đại lượng vật lý bên ngoài, mà là những

không gian thời gian đã thấm qua tâm thức, cảm xúc tác giả; nó là cái quan niệm và

cái nhìn của tác giả về cuộc đời, về nhân thế.

Biểu hiện của thời gian thường là mượn vật thể trong không gian, ví dụ: nói

"tùng" lại kín đáo chỉ về mùa thu. Vật thể tồn tại trong không gian cũng khác nhau về

chiều kích, về màu sắc. Con người hoa nhập trong chiều kích ấy và không thể gọi là

nhỏ hay là lớn. Tranh của phương Đông nhiều khi vẽ con chim lớn hơn con đò - đó

mới là không gian nghệ thuật: không theo khách quan, không theo lôgic.

Chiều kích không gian là chiều kích vũ trụ, thời gian của thơ cổ điển là thời gian

vĩnh cửu - thi pháp thơ phương Đông thường thích miêu tả hoàng hôn nhiều hơn bình

minh, điểm thấp nhất của cuộc đời là hoàng hôn - ánh sáng sắp qua, ngày sắp chấm

dứt. Thơ ca hiện đại mới có những câu thơ kiểu: "Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn nhất

chi mai" (Hồ Chí Minh) - mặt trời lên trên đầu - không gian hưng thịnh nhất. Thơ ca

phương Đông thích nói mặt trăng nhiều hơn mặt trời, vì vậy QATT có 67 lần nhắc đến

trăng.

Không gian và thời gian không thể tách rời ra được. Khắc phục tình trạng này các

nhà thơ thường miêu tả không gian vận động theo thời gian. Và văn học có ưu thế hơn

các ngành khoa học khác, khi sử dụng ngôn ngữ các nhà văn có khả năng chuyển dịch

từ bức tranh này sang bức tranh khác một cách nhẹ nhàng và dễ dàng đưa người đọc

đến các miền khác nhau của không gian. Các biểu tượng không gian trong các tác

phẩm văn học thường mang ý nghĩa khái quát. Chẳng hạn, vầng trăng trong thơ cổ 55

điển là đại biểu của thái âm, nằm trong hệ âm dương ngũ hành, gắn với mùa màng,

tuần trăng và con nước. Như vậy, các nghệ sĩ ngôn từ không những gần gũi với ngôn

ngữ của các biểu tượng thời gian mà còn gần gũi với các biểu tượng không gian, mặc

dù trong văn học ngôn ngữ về thời gian chiếm ưu thế.

Thời trung đại, ở Việt Nam, cùng với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, là nhịp

sống "nông nghiệp" của mọi người. Thời gian không mấy vội vã, "cơm vua ngày trời",

"hết ngày còn đêm", cảm giác cuộc đời trôi theo một chiều, không đảo ngược, cảm

giác lo sợ giữa sự hữu hạn của đời người và sự vô hạn của thời gian khiến cho con

người ít nghĩ đến hiện tại, tương lai, mà có xu hướng tưởng niệm "cái đã qua", vì "cái

đã qua", quá khứ là "một đi không trở lại".

"Trong văn học trung cổ có sự cảm thụ cá nhân phong cảnh và những bức tranh

thiên nhiên chỉ là những lối văn (arabesque) lẫn lộn những cảm giác trữ tình của tác

giả. Sự thức tỉnh vui mừng của những tình cảm và của thiên nhiên mùa xuân, sự so

sánh người đàn bà đẹp với những tháng năm tươi đẹp, nỗi buồn ví với mùa thu hoặc

mùa đông trong thiên nhiên đó là những mô típ chiếm ưu thế trong thơ ca và đã trở

thành quen nhàm (...). Như vậy, thiên nhiên tự bản thân nó, như là một giá trị độc lập,

chưa có chỗ đứng trong văn học cũng như trong hội họa" [42: 9].

Nghệ thuật có xu hướng tri giác thời gian thông qua không gian, hoặc ngược lại,

bởi qua những chất liệu về đường nét, màu sắc, hình khối con người có thể cảm nhận

được thời gian:

Ví dụ:

"Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu"

(Một lá ngô đồng rụng

Thiên hạ biết thu về

Cổ thi)

2.3.1. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập.

Không gian và thời gian cũng là thước đo của thi pháp. Ở thơ chữ Hán thì đó là

không gian chiến trận, không gian sử thi... còn ở thơ Nôm thì là không gian thôn dã,

không gian ngày thường... 56

Không gian trong thơ Việt Nam thường cũng bình dị như cảnh làng quê Việt

Nam, ít có (hoặc gần như không có) cảnh quan kì vĩ ngoại cỡ như trong thơ nước

ngoài. Ví như Trung Quốc có núi cao sông lớn và công trình nhân tạo ở tầm cỡ hiếm

có (Hy Mã, Thái Sơn, Trường Giang, Hoàng Hà, nóc nhà thế giới, Tây Tạng, Vạn Lý

Trường Thành...) nên ở Trung Quốc cũng có những câu thơ lời nói diễn tả vẻ đẹp kỳ

vĩ, hùng tráng của các cảnh quan ấy.

Ví dụ:

"Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (Tương tiến tửu - Lý Bạch)

(Bạn chẳng thấy nước sông Hoàng Hà từ trên trời xuống, cuồn cuộn chảy ra biển

không trở lại...)

Cảnh quan tu hành, ẩn dật trong thơ Việt Nam không dữ dội, choáng ngợp mà

thường êm ả, dịu dàng, thanh thoát, kỳ thú. Đó là cảnh "Côn Sơn hữu tùng... Côn Sơn

hữu thạch... Nham trung hữu tùng ... Lâm trung hữu trúc..." (Côn Sơn có khe, có đá, có

thông, có trúc - Côn Sơn ca), cảnh "Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá (Nguyễn Khuyến),

cảnh ao thu, nhà cỏ, ngõ trúc... Cảnh quan trong thơ ngoài đời cũng có dáng dấp tương

tự.

Ví dụ:

- "Hình khe thế núi gần xa" (Chinh phụ ngâm)

- "Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" (Truyện Kiều)

- "Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây" (Hương Sơn phong cảnh)

Đọc dã sử và truyện cổ Trung Quốc, chúng ta bắt gặp một số đạo sĩ, ẩn sĩ trốn đời

tận chốn thâm sơn cùng cốc: Bá Di, Thúc Tề chết đói trong núi Thú Dương, Giới Tử

Thôi chịu chết cháy trong rừng sâu nước Tấn, Lão Tử theo tương truyền "cưỡi trâu tới

cửa Hàm cốc rồi một đi không trở về" [31] .v.v... Các nhà nho Việt Nam, từ quan về ở

ẩn phần lớn trở lại nơi mình đã sinh ra và lớn lên, trở về với cộng đồng làng xã - đơn

vị văn hóa của xã hội Việt Nam, Nguyễn Trãi về động Thanh Hư của ông ngoại, Trạng

Trình về lập "Quán Trung Tân" ở bên bờ sông Hàn (Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải

Phòng), Nguyễn Khuyến về với quê hương Bình Lục, Hà Nam của mình .v.v... 57

Đọc Nguyễn Trãi, thấy trong thơ chữ Hán và trong thơ quốc âm ít có nỗi nhớ nào

về làng quê - không gian ẩn dật của Nguyễn Trãi là núi rừng, ít bắt gặp dấu vết của

quan hệ giao lưu với làng xã. Tuy nhiên, không có tư liệu nào cho phép khẳng định vì

Nguyễn Trãi không được dân làng hồ hởi đón nhận nên phải bỏ lên Côn Sơn. Hiện chỉ

có thể lọc ra một số câu thơ ít ỏi gián tiếp cho biết cách nhìn, cách nghĩ về nông dân

của Nguyễn Trãi: một mặt, ông ý thức về vị trí của nông dân như một lực lượng lao

động nên ông nói: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày"; mặt khác vai trò hướng đạo, dạy dỗ,

giáo hóa của nhà nho đối với nông dân là vấn đề có tính nguyên tắc:

"Nếu khỏi tiểu nhân quân tử nhọc,

Dầu chăng quân tử tiểu nhân loàn"

Nhà nho "hòa nhi bất đồng" với nông dân ở làng xã. "Nhà nho luôn có ý thức

tách ra, đứng cao hơn đám quần chúng mà họ gọi là cõi tục". Nhà nho coi "dĩ nông vi

bản", nhưng không tham gia vào sản xuất nông nghiệp, mà lo tìm "văn hóa" cho đường

lối cai trị nông dân. Từ Khổng tử coi thường Phàn Trì vì gã học trò này muốn học nghề

cày ruộng cho tới các nhà nho Việt Nam, có cả một truyền thống. Rất có thể cách đặt

vấn đề giải hóa quá gay gắt, thái độ phê phán các "dị đoan" của các nhà nho quá cương

quyết, rồi việc tự đặt vị trí cao hơn, bên trên dân mà quan hệ của nhà nho với làng xã

không mấy tốt đẹp? Phải chăng trong số những lí do khiến Nguyễn Trãi ít về làng xã

mà hướng về Côn Sơn, có một lí do thuộc về quan hệ có tính văn hóa của nhà nho đối

với làng xã này? Và đây, là một nguyên nhân của bi kịch tinh thần của Ức Trai?

Về với Côn Sơn gặp được chốn non xanh nước biếc thì cũng là duyên trời cho,

về là cốt xa lánh đám bụi trần, tìm nơi di dưỡng tinh thần, nói như chữ nhà Phật là để

tu tâm (Phật ở trong lòng người). Con người giao hòa được với tạo vật, lấy tiếng nước

khe làm đàn cầm, lây rêu xanh làm chiếu thảm, ngơi nghỉ nơi rừng tùng, ngâm nga bên

gốc trúc thì "Nào có thênh thang mới gọi là " (Hồ Chủ tịch). Việc có thể bận, nhưng

tâm phải nhàn, sống ung dung tự tại, ẩn tự lòng mình, "Đại ẩn ẩn triều thị", "Người

xưa ẩn cả lọ lâm tuyền"... Không gian ẩn dật ở chốn lâm tuyền hay chốn quê cũ trong

QATT tập trung ở 128 bài đầu, còn từ đề mục "Bảo kính cảnh giới" trở đi thở nặng về

triết lý nhân sinh, về nhân tình thế thái.

Ở chốn lâm tuyền, con người thi nhân tự do, phóng khoáng tìm mối giao cảm

giữa con người với thiên nhiên: 58

"Dò trúc xông qua làn suối

Tìm mai theo đạp bóng trăng" (Tự thán, 77)

Thiên nhiên tĩnh lặng hiểu được tâm trạng "bất đắc chí" của nhà thơ:

"Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy

Có thân chớ phải lợi danh vây

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Ngày vắng xem hoa bả cây" (Ngôn chí, 11)

Xa lánh thị thành, tránh được thị phi, xa lánh mọi "bụi bặm" của cuộc đời không

còn bận rộn với chính sự, Nguyễn Trãi đã có những phút giây "thư thái hiếm có:

"Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay

Trông thế giới phút chim bay" (Mạn thuật, 26)

Đối lập với tư thế "đủng đỉnh" thư thái, là ý nghĩ về sự đời trôi nhanh "phút chim

bay". Không gian chậm rãi đối lập với thời gian "thoi đưa", đó là cảm giác đau khổ,

day dứt của đời người.

Bạn của thi nhân giờ đây là không gian vũ trụ:

"Bả cái trúc hòng phân suối

Quét con am để chứa mây

Trì tham nguyệt hiện chẳng buông cá

Rừng tiếc chim về ngại phát cây" (Mạn thuật, 28)

Thi nhân ưu ái, mời mọc những gì có quanh mình: "tham", "chứa", "tiếc" là

những động từ biểu đạt tư thế thu nhặt, gom góp những thứ xung quanh vào mình. Cô

đơn trước thế sự, buồn trước cuộc đời, trở về làm bạn với thiên nhiên Nguyễn Trãi có

những ý nghĩ nhẹ nhàng, nâng niu với cảnh vật vô tri vô giác: "chứa mây, tham

nguyệt, tiếc chim" - Một cảm giác thương yêu tràn ngập trong không gian "lâm tuyền"

của Nguyễn Trãi. Thiết nghĩ, con người thời hiện đại có được ý nghĩ và hành động như

các thi nhân thời trung đại thì thiên nhiên quanh ta, môi trường sống quanh ta đâu đến

nỗi bị hủy diệt và tàn phá.

Không gian chốn "lâm tuyền" là không gian lí tưởng cho một tâm hồn muốn tĩnh

lặng. Rất nhiều hình ảnh thơ trong QATT miêu tả "cõi yên hà" của nhà thơ, đó là: "am

rợp, song im" (bài 17), "thu im, xuân tạnh" (bài 56), "đìa thanh, cây tĩnh" (bài 65), 59

"cảnh tựa chùa chiền" (bài 12, 117); (bài 64)... Và với không gian tĩnh lặng, nhà thơ

tìm sự giao hòa với thiên nhiên khi "chẳng cài cửa tiếc non che khuất", và "núi láng

giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam" (bài 64); hoặc "Láng giềng -

một áng mây bạc, Khách khứa - hai ngàn núi xanh". "Trong thơ trữ tình tả cảnh của

Nguyễn Trãi, thú ngắm cảnh thiên nhiên không ít trường hợp được kết hợp với sự ca

ngợi cuộc sống cô đơn bình dị giữa đồng ruộng, sông núi và đôi khi có tính chất một

sự giao tiếp thân mật với cảnh vật xung quanh." (N. I. Nhikulin - sđd - tr.29)

Qua khảo sát, chúng tôi cũng thấy rằng, từ "lều" được nhà thơ sử dụng rất nhiều,

lặp đi lặp lại đến 8 lần, khi thì "góc, lều", khi thì "con lều", "lều - căn", "lều tiện", "căn

lều lá", "chụm lều", "lều cỏ", "gian lều"... Vậy vì sao đã ở trong cảnh "núi láng giềng,

chim bầu bạn" mà tác giả lại cứ mô tả căn nhà mình ở là "lều tiện", "lều cỏ"...? Có lẽ

ngoài ý nghĩa biểu đạt một lối sống giản dị, còn là sự diễn tả một không gian chật hẹp,

tù túng đối lập với không gian hoành tráng, không gian chiến trận, không gian sử thi

trong Bình Ngô đại cáo, trong thơ chữ Hán...

Đến với không gian nghệ thuật của QATT ta thấy nhà nho ẩn dật Nguyễn Trãi rất

rõ, có thể thấy văn hóa ẩn dật là của Nguyễn Trãi, người tiên phong thể hiện cái thú ẩn

dật.

Có một vài bài thơ trong QATT viết về quê cũ - không gian "trở về":

"Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân

Lãng tháng chưa lìa dưới trần

Bít bả hài gai khăn gốc

Xềnh xoàng làm mấy đứa thôn nhân" (Mạn thuật, 33)

"Cố hương" là tình cảm da diết, thân thương của mỗi người, là nỗi lòng của thi

nhân mỗi khi cuộc đời có sóng gió, tâm hồn nặng trĩu ưu tư. "Suy nghĩ trong đêm" của

nhà thơ Lí Bạch cũng là:

"Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương..." (Tĩnh dạ tư)

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê hương). 60

Từ quan, về quê cũ, "Xềnh xoàng làm mấy đứa thôn nhân", hạnh phúc đến với

Nguyễn Trãi thật giản dị, có "rau trong nội, cá trong ao" và lòng tự hỏi lòng:

"Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào" (Mạn thuật, 34)

Nhiều lần Nguyễn Trãi khẳng định:

"Am quê về ở dưỡng nhàn chơi"

và "Ao quan thả gửi hai bè muống

Đất bụt ương nhờ một luống mùng" (Thuật hứng, 68)

Một không gian đượm màu sắc dân dã, bình dị và bình yên. Tâm hồn nhà thơ

lắng nghe những âm thanh quen thuộc hàng ngày của làng quê yên tĩnh:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dõi cầm ve lầu tịch dương" (Bảo kính cảnh giới, 170)

Giai điệu "lao xao" của chợ cá đã đi vào thơ ca việt Nam, tạo cho bức tranh quê

Việt Nam đậm đà một màu sắc dân dã. Một không gian bình thường của cuộc sống, mà

xôn xao trong xúc cảm của nhà thơ và độc giả.

Như phần trước chúng tôi đã trình bày, chữ "nhàn" là phần nổi của tảng băng trôi,

còn phần chìm là cái tâm lo đời, đau đời, ưu hoạn của Nguyễn Trãi, nên không gian

chủ đạo của QATT là không gian vắng vẻ trong đêm được biểu hiện qua hình tượng

ánh trăng.

"Ánh trăng thường dùng để tượng trưng cho trí tuệ bát nhã, cho sự viên giác. Cái

tâm đã đạt đến chỗ hư không trong suốt. Thường đó là ánh trăng vằng vặc trong một

khoảng không gian bao la, cao rộng và sâu không giới hạn" [145].

Trăng một biểu hiện không gian nghìn đời biến thành không gian nghệ thuật

trong Lí Bạch, Đỗ Phủ, Nguyễn Du... "Trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ" (Trăng

sáng - Nam Cao tuyển tập, tập 1, Nxb văn học, 1993); "Kim dạ Phu châu nguyệt, Khuê

trung độc dạ khan" (Đỗ Phủ); "Duy hữu Tây giang nhất phiến nguyệt, Tằng chiếu Ngô

vương cung lý nhân" (Lí bạch)... Mỗi nhà thơ đem đến cho trăng một triết lý, một cách

nhìn cuộc đời (bi thương, trầm thống đối với Đỗ Phủ, vĩnh cữu và biến cải với Lý

Bạch...). Với Nguyễn Trãi, trăng là một sinh thể sống:

61

"Chẳng cài cửa, tiếc non che khuất

Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ

Hãy tưởng tượng nhà thơ cặm cụi trên bản thảo. Đối với nhà thơ, không có gì tồn

tại xung quanh. Nhưng kìa nhà thơ gác bút lại và chợt thấy vầng trăng sáng ngần hiện

ra như một người khách trong khung cửa. Nguyễn Trãi nói về trăng như một sinh thể

sống:

Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào" (N.I.Nhikulin - sđd tr.29)

Trong thơ Ức Trai, trăng vừa là một yếu tố trữ tình, vừa là một yếu tố triết lý,

phản ánh sự đa diện trong tâm tưởng nhà thơ. QATT 61 lần nhắc đến "nguyệt", 6 lần

nói đến "trăng"; có bài 2 lần dùng từ "nguyệt" (bài 202, 212, 242), lại có bài dùng cả

"nguyệt" lẫn "trăng" (Bài 155) và có bài tuy không dùng đến "nguyệt" hoặc "trăng",

nhưng ánh trăng vẫn ngời sáng trong câu thơ.

"Hương thỏ chìm tăm hải nhược

Nhà giao giãi bóng thiềm cung" (Bài 213)

QATT có một bài dành hẳn cho việc tả trăng:

"Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không

Xem ắt lắm một thức cùng

Hải nhược chiết nên cành quế tử

Giang phi chiếm được chức thiềm cung

Thu cao thỏ ướm thăm lòng bể,

Vực lạnh châu mừng thoát miệng rồng

Đạn khiếp thiên nhan chăng nỡ tận

Lui thuyền lãng đãng ở trên dòng" (Bài 212)

Như vậy "nguyệt" hoặc "trăng" đã xuất hiện trong QATT với một tần số đáng kể

67/254 bài, chiếm tỉ lệ 26% ở hai dạng:

*. "Nguyệt"' ("trăng") nằm trong cụm từ "nhật nguyệt" "hoa nguyệt", "phong

nguyệt", nói về trời đất (không gian), ngày đêm (thời gian), cuộc tan hợp, thú chơi...

Ví dụ:

"Lòng tiện soi, dầu nhật nguyệt" (Thuật hứng, 63)

Hai chữ công danh biếng vả vê " (Bảo kính cảnh giới, 155) 62

*. Thưởng ngoạn và ký thác tâm sự:

Ví dụ:

"Nguyệt mọc đầu non, kình dội tiếng

Khói tan mặt nước, thẫn không lầu" (Ngôn chí, 19)

"Cửa thầy giá nhơn nhơn lạnh

Lòng bạn trăng vặc vặc cao" (Bảo kính cảnh giới, 167)

Ký thác và thưởng ngoạn, trữ tình và triết lý đan cài, quyện lẫn vào nhau.

QATT có nhiều câu thơ đ ẹp về hình tượng trăng và có lẽ đó là những câu thơ

nôm hay viết sớm nhất về trăng trong kho tàng văn học dân tộc.

Ví dụ:

- "Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không" (Bài 212)

- "Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về" (Thuật hứng, 48)

- "Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt

Mai rụng hoa đeo bóng cách song" (Thuật hứng, 51)

Với tần số sử dụng đáng kể "nguyệt" ("trăng"), không gian nghệ thuật trong

QATT ở một chừng mực nào đó đã nghiêng về đêm. Ở không gian ấy nhà thơ

được.giải thoát khỏi những bức xúc của sự đời phức tạp. Đêm về, trong tĩnh lặng, đối

mặt với trăng, nhà thơ được thư giãn, thanh thản, tự do:

"Trì cỏ được câu ngâm gió

Hiên mai cầm chén hỏi trăng" (Mạn thuật, 23)

Xưa Lí Bạch có câu thơ:

"Cử bôi yêu minh nguyệt

Đối ảnh thành tam nhân" (Nguyệt hạ độc chước).

(Cất chén mời trăng sáng

Mình với bóng là ba

Một mình uống rượu dưới trăng - Tương Như dịch)

Nay, Ức Trai viết:

"Rượu đối cầm, đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người" (Tự thán, 76) 63

Lí Bạch và Ức Trai sinh cách nhau 619 năm (701 -1380, cùng chết ở tuổi 62),

gặp nhau trong một tứ thơ độc đáo. Cả hai đều có tâm, có tài, có hoài bão giúp đời.

Song do hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, nên tâm sự thơ cũng khác nhau.

Lí Bạch không được đời dùng, xem đời là giấc mộng - Phù sinh nhược mộng.

Nhân thế vô thường - cho nên sau lúc "cử bôi" và "đối ảnh", Lí Bạch "Tạm bạn nguyệt

tương ảnh, hành lạc tu cập xuân" (Nguyệt hạ độc chước) - (Tạm cùng trăng với bóng,

chơi xuân cho kịp mà !) - (Một mình uống rượu dưới trăng - Tương Như dịch), Ức

Trai khác Lí Bạch. Ức Trai đã từng là nhân vật chính trong dòng chảy của lịch sử thời

đó, "là người anh hùng cứu nước" (Phạm Văn Đồng). Ông đã góp phần không nhỏ vào

việc giành lại nền độc lập cho dân tộc và dựng nên đế nghiệp Lê triều. Những tưởng

sau ngày "đại định" được tiếp tục đem h ết sức mình làm cho "trong thôn cùng xóm

vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu nhưng rồi chính mình phải chịu "oán sầu".

"Ngục trung độc bối không tao nhục

Kim khuyết hà do đạt thốn tiên?" (Oan thán)

(Trong lao lưng giấy cam mang nhục

Cửa khuyết nhờ đâu đạt một lời?

Than oan - Đào Duy Anh dịch)

Ức Trai về với thiên nhiên, về với "đêm thanh, nguyệt bạc", tìm ra cách sống

khác hợp với hoàn cảnh của mình:

Ức Trai rời chốn "Bán sinh trần thổ trường giao cốc" (Nửa đời bụi bặm hoài, lăn

lóc - Côn Sơn Ca - Đào Duy Anh dịch) về với những người bạn cũ -"Mây khách khứa,

nguyệt anh tam" (Thuật hứng, 64). Với trăng, ông như sống trong cõi mộng:

"Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt

Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng.(Bảo kính cảnh giới, 199)

Nhà thơ với trăng, như đôi "tình nhân" lí tưởng. Trăng đến với ông, lúc "đáy

nước", lúc "trên không" (Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không), lúc "đầu non",

lúc "hải nhược" (Nguyệt mọc đầu non kình dội tiếng. Hương thỏ chìm tăm hải

nhược)... Nhà thơ cùng thức với trăng (Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh), trò

chuyện với trăng (Hiên mai cầm chén hỏi trăng), trăng "đeo" theo người (Chè tiên

nước ghín nguyệt đeo về), người chở trăng theo. 64

Thơ trăng trong QATT vừa giàu có vừa trang nhã, tinh tế và uyên bác. Đọc thơ

ông, người xưa coi ông như "ông tiên ở trong lầu ngọc". Song Ức Trai không phải là

bậc "thi tiên" như Lí Bạch, cũng không phải là bậc "thi Phật" như Vương Duy đời

Đường, Ức Trai là bậc "kinh bang, hoa quốc cổ vô tiền" (Người xây dựng làm vẻ vang

cho nước, xưa nay chưa từng có - Nguyễn Mộng Tuân).

"Ba canh" thức với "thơ" và "trăng" (Lòng thơ nghìn dặm, nguyệt ba canh - Bảo

kính cảnh giới, 169), "ba canh" thức với "niềm trung hiếu cũ".

Tận đáy lòng Ức Trai có một dòng chảy âm thầm nhưng mãnh liệt, chảy suốt

ngày đêm, năm tháng: "Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu

đông" (Thuật hứng, 50)

Thử đặt mình vào hoàn cảnh Ức Trai những năm cuối đời mới quý ánh trăng đêm

trong thơ ông. Một vấn đề được đặt ra là vì sao trong QATT khi viết về trăng, Ức Trai

dùng từ "trăng" ít hơn từ "nguyệt" (6/61, tỉ lệ 1/10)?

a. "Nguyệt" là từ Hán Việt, "Trăng" là từ thuần Việt. Xu hướng chung trong nền

văn chương nước nhà là từ thuần Việt ngày càng được dùng nhiều hơn. Tuy nhiên, do

sắc thái biểu cảm khác nhau giữa các cặp từ Hán Việt - thuần Việt đồng nghĩa, với ý

nghĩa hoặc trang trọng, khái quát hoặc cụ thể, sinh động, người viết sẽ tùy văn cảnh

mà đặt cho đúng chỗ.

Ví dụ:

- "Thoi nhật nguyệt đưa qua mấy phút" (Thuật hứng, 85)

- "Nguyệt mọc đầu non, kình dội tiếng" (Ngôn chí, 19)

- "Lòng bạn trăng vặc vặc cao" (Bảo kính cảnh giới, 167)

- "Hiên mai, cầm chén hỏi trăng" (Mạn thuật, 23)

b. Tiếng Việt cổ có hiện tượng âm dính "trăng" ngày trước được nói (đọc) là

"blăng". Có thể để cho tròn vành rõ tiếng trong diễn đạt mà Ức Trai đã sử dụng nhiều

từ "nguyệt" hơn từ "trăng"?

Tuy vậy, ông là nhà thơ lớn của dân tộc, nên trong thơ ông có hiện tượng đấu

tranh chuyển hóa giữa những lớp từ đồng nghĩa thuần Việt và Hán Việt.

Ví dụ:

"Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén" (Ngôn chí, 11) 65

- "Hiên mai, cầm chén hỏi trăng" (Mạn thuật, 23)

c. Luật thơ quy định nên dùng "nguyệt" hoặc "trăng"

+ Luật bằng trắc:

Ví dụ:

- "Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình"

(B B T T T B B) (Bài 20)

"Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt"

(T T B B B T T) (Bài l19)

+ Vần thơ: Ví dụ, ở bài thơ 23, hay ở bài 98 vần chân bài thơ là vần "ăng", cho

nên được sử dụng tiếng "trăng" (cuối câu 6, theo luật gieo vần: 1, 2, 4, 6, 8) - "Hiên

mai cầm chén hỏi trăng".

2.3.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập.

Thời gian vận hành theo một qui trình bất biến: sáng rồi trưa, ngày qua đêm,

tháng, năm, mùa, vụ. Con người quen tri giác thời gian như trật tự vốn có của nó; tri

giác thời gian theo kiểu tuyến tính in vào lời ăn tiếng nói hàng ngày (trước - sau, tiền -

hậu, đầu - đuôi...), vào tác phẩm văn nghệ. Ví như truyện cổ dân gian thường diễn biến

theo trật tự từ quá khứ đến hiện tại rồi tương lai không trộn lẫn các thời ấy như trong

tác phẩm văn học hiện đại. Thời gian "tự nhiên" tồn tại khách quan, vận hành không

ngừng không nghỉ, vô thủy vô chung, chính xác tuyệt đối, thời gian trong tác phẩm

văn nghệ lại diễn biến theo qui trình tâm lý con người.

Ví dụ:

Thời gian như nước qua cầu, như bóng câu qua cửa...

- "Một ngày tù nghìn thu ở ngoài" (Hồ Chí Minh)

- "Ngày vui ngắn chẳng đầy gang" / "Ba thu dồn lại một ngày dài ghê "...

(Nguyễn Du).

"Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học không đơn giản chỉ là quan điểm

của tác giả về thời gian mà là một hiện tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm

thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ

chức tác phẩm" [119]. 66

Đời người có những quãng thời gian có ý nghĩa đặc biệt gắn với tuổi trẻ, ước mơ,

công danh, hạnh phúc..., cho nên hoài niệm quá khứ cũng là nét chung của con người.

Tìm về quá khứ, "như đi qua một cánh đồng đầy sương mù" (M. Sô-lô-khốp) cái gì là

đẹp càng trở nên lấp lánh, diệu kì. Ở thơ chữ Hán chúng ta thường bắt gặp thời gian

quá khứ: "Táp tải hư danh an dụng xứ, Hối đầu vạn sự phó Nam Kha" (Ba chục năm

rồi danh tiếng hão, Ngoái đầu muôn việc giấc chiêm bao" [134: 98, 99]... Trong QATT,

chúng ta bắt gặp cảm thức về dĩ vãng đẹp đẽ qua các từ "niềm xưa", "mấy trăm thu",

"mấy trăm đời", "ngày trước", "thuở nọ "thuở thăng bình", "kiếp nào", "thuở ấy" (dùng

5 lần)... "Thuở ấy" của Nguyễn Trãi là thuở của người anh hùng gặp thời được thế, thả

sức tung hoành, nguyện hiến dâng tất cả cho sự nghiệp chung; thuở của bậc đại trí suy

ngẫm, tâm đắc bao điều thế sự đã được thử thách qua thời gian và thực tiễn, dự định sẽ

đem chúng thực thi vào công cuộc ích quốc lợi dân, thì...

Đọc thơ Nguyễn Trãi bắt gặp đây đó dư vị buồn tiếc, xót xa cũng là điều dễ hiểu

và hợp lí. Cái buồn của thơ ông là cái buồn của người nắm bắt chân lí và quy luật, cái

buồn của bậc trượng phu, quân lử.

Thời gian đời người gắn với thời gian vũ trụ tuần hoàn:

- "Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai" (Cáo tật thị chúng - Mãn Giác thiền sư)

(Xuân qua, trăm hoa rụng

Xuân tới, trăm hoa nở...)

Ở QATT, thời gian vũ trụ tuần hoàn biểu hiện rõ nhất qua hai mùa: xuân (sử dụng

52 lần), thu (sử dụng 30 lần) và cặp đối lập "đông - hè".

Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng có những câu thơ tả mùa xuân với cảm xúc

tinh tế, độc đáo của thi nhân:

"Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai"

Mộ xuân tức sự.

(Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân.

Cuối xuân tức cảnh).

Những giọt mưa xuân ấm áp lất phất rơi đã mở bung những cánh hoa xoan trắng

muốt trước sân. Màu trắng thanh tao của những cánh hoa xoan li ti đã làm cho bức 67

tranh mùa xuân thêm hoàn thiện. Quan sát cảnh vật để rút ra những nhận xét tinh tế,

tác giả như muốn gửi gắm vào không gian mùa xuân niềm khao khát bù trì của mình -

"Giọt mưa xuân" "mở" những cánh hoa xoan, còn lòng mình ai thấu hiểu đây? Ai mở

nó ra đây?

"Tình như một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem" (Cây chuối)

Cảm xúc tự do, biểu hiện bằng tiếng mẹ đẻ là lợi thế cho nhà thơ bày tỏ sự "tiếc

xuân", "thèm xuân", gây nên niềm xốn xang rạo rực trong trái tim yêu cuộc sống của

thi nhân và của cả độc giả, bởi mùa xuân bao giờ cũng là mùa của tương lai, mùa của

hy vọng:

"Cầm đuốc chơi xuân này khách nói

Tiếng chuông chưa dóng ắt còn xuân" (Bài 195)

"Cầm đuốc chơi xuân" bởi vì "xuân xanh chưa dễ hai phen lại. Thấy cảnh càng

thêm tiếc thiếu niên" (Bài 201), và "Cướp thiếu niên đi thương đến tuổi, Ốc dương hòa

lại, ngõ dừng chân" (Bài 195). "Cầm đuốc chơi xuân", "tiếc xuân", 52 lần nhắc đến

mùa xuân càng chứng tỏ sự luyến tiếc của tác giả, luyến tiếc một quá khứ đẹp, luyến

tiếc tuổi trẻ, luyến tiếc những gì đã qua một đi không trở lại, những gì đã qua là "thỏa

chí bình sinh" cho "chí làm trai" của Nguyễn Trãi và chưa phải chịu cảnh sống bon

chen, thị phi ở trong triều đình. Viết nhiều về mùa xuân cũng chứng tỏ sự khác biệt của

Nguyễn Trãi vê thi pháp thời gian nghệ thuật, bởi thơ xưa thường viết về mùa thu

nhiều hơn.

Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm, có trời xanh trong, có lá vàng rơi, có sương

khói, có cái se lạnh của khí trời, có cả tâm trạng xốn xang của con người trước cảnh

vật vừa thanh tao, vựa đượm nét buồn... Mùa thu vẫn là cảm hứng vô tận của người

nghệ sĩ. Họa sĩ Lê-vi-tan (Nga) để lại cho đời bức tranh "Mùa thu vàng" nổi tiếng; nhà

thơ Đỗ Phủ trên chiếc thuyền lênh đênh xa quê cũng viết nên chùm thơ thu (8 bài) với

nỗi niềm nhớ quê đau đáu da diết; Nguyễn Khuyến được tôn vinh là "nhà thơ của làng

cảnh Việt Nam" với chùm 3 bài thơ thu của "màu xanh rơn ngợp đất'trời", và Nguyễn

Du cũng góp vào "vườn thu" những cảm xúc tinh tế tuyệt vời trước cảnh thu diễm lệ:

68

"Long lanh đáy nước in trời.

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng" (Truyện Kiều)

Với Nguyễn Trãi, thời gian mùa thu phù hợp với không gian về đêm (bằng 61 lần

dùng từ "nguyệt"), vì cái trong trẻo lặng lẽ của nó trong đêm tạo nên một không gian

bát ngát vô giới hạn và sự tĩnh lặng hư không đến vô cùng, một không gian, thời gian

phù hợp cho thi nhân giải bày với trời đất nỗi niềm "ẩn ức", "cô đơn", nỗi niềm "thao

thức" của mình.

"Mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở, như là mới bắt đầu, có thể đang

lên của sự hưng vượng, chưa dừng lại và kết thúc quá trình. Nó là cái dương chưa

trưởng thành đầy đủ. Mùa thu là mùa của cây cỏ, hoa lá ùa vàng, con người buồn, sinh

vật ít hoạt động, nhưng cũng là giai đoạn đang còn tăng tiến của tính chất này, chưa

phải là đỉnh cao của sự tàn lụi. Nó là cái âm chưa trưởng thành đầy đủ. Hai mùa đó

vừa tiêu biểu cho hai trạng thái đối nghịch nhau của vạn vật, vừa chứa trong nó khả

năng tiếp tục phát triển của quá trình, do đó nó được chọn để biểu trưng cho qui luật

vận động không ngừng của tự nhiên". [138]

Thời gian sinh mệnh cá thể trong QATT nằm trong qui luật cảm nhận thời gian

đời người của người trung đại: quá khứ là quan trọng. Nguyễn Trãi ghi lại cảm nhận

thời gian đời người như "bóng câu qua cửa" bằng các cụm từ: "tuổi tàn, tóc bạc", "đã

bạc đầu", "tóc hai phần bạc", "tuổi đã năm mươi đầu đã bạc"..., "bạc đầu" vừa là minh

chứng cho tuổi già, nhưng cũng là biểu tượng của sự nghĩ suy. Có giai thoại nói rằng:

Nguyễn Du sau khi viết xong "Truyện Kiều" đầu bạc trắng... đủ thấy rằng: con người

nếu "lao tâm khổ tứ" thì chóng "bạc đầu". Cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời "thao

thức":

"Bình sinh độc bão tiên ưu chí

Toa ủng hàn khâm dạ bất miên

Hải khẩu dạ bạc hữu cảm.

(Bình sinh một mình ôm cái chí lo trước.

Ngồi ôm chăn lạnh không ngủ suốt đêm ).

69

Hay "Cao trai độc tọa hồn vỏ mị

Hảo bả tân thi hướng chí luân"

Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy đồng phú.

(Buồng cao ngồi một mình vẫn không ngủ,

Hãy làm bài thơ mới mà nói đến chí của mình.

Đêm thu cùng ngâm với Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy).

Nguyễn Trãi: "Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung", "Chẳng nằm thức dậy nẻo ba

canh"... Thao thức vì lo đời, đau đời, buồn thế sự, thao thức vì lí tưởng khát vọng "yêu

nước, an dân" chưa thành... "Thao thức" đến "bạc đầu", "bạc đầu" vì "tuổi cao"... mọi

cách diễn đạt đều nhằm thể hiện cái "tâm" trăn trở cái "tâm" lo nghĩ của nhà thơ.

Nguyễn Trãi đau khổ vì những tháng ngày sống nhàn của mình là "tạm bợ", là "giấc

mộng", là "bất đắc dĩ"... Quá khứ hào quang đã qua, tấm lòng "yêu nước, yêu dân" vẫn

đau đáu, vẫn "đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông" nay phải chờ "Gió nơi đâu ?

gượng mở xem"... Với hiện tại, tác giả sử đụng đến 24 lần các cụm từ: "khoảnh khắc",

"qua ngày qua tháng", "ngày tháng qua "... biểu hiện tấm lòng "nôn nao", ngóng chờ

"cái đang đến" và sự nuối tiếc "cái đã qua"... Vì thế, thời gian sinh mệnh cá thể của

hiện tại trôi qua trong sự nóng ruột bồn chồn, mâu thuẫn giữa quá khứ hiện tại - tương

lai tạo nên nét buồn da diết trong QATT: "Gia sơn cách đường nghìn dặm, Sự nghiệp

buồn đêm trống ba" (Tự thán, 94)

Là công dân của đất nước mà cảm giác xa cách "gia sơn" đến nghìn dặm và nỗi

buồn suốt đêm thâu dằng xé tâm tư của Nguyễn Trãi, nỗi buồn chỉ mong được giải tỏa,

mong có người thấu hiểu:

"Thư nhạn lạc lài khi gió.

Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng

Gia san cũ còn mường tượng

Thân sự già biếng nói năng

Khó ngặt qua ngày xin sống.

Xin làm đời trị mấy đời bằng" (Tự thán, 96)

Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong QATT vừa mang đặc trưng

chung của không gian, thời gian nghệ thuật thời trung đại, vừa mang dấu ấn riêng của 70

phong cách thơ Nguyễn Trãi, phong cách của một thi nhân "lo đời" "đau đời", "ẩn ức"

trước thế sự...

Như vậy, từ những nét khu biệt trong thi pháp thơ nôm Nguyễn Trãi đến quan

niệm nghệ thuật về con người; thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật đã lí giải

được những vấn đề lớn về giá trị nội dung trong QATT. Tìm nét khu biệt và đồng nhất

giữa thơ Hán và thơ Nôm, ở một tác giả vừa chịu sự chế ước bởi thi pháp thơ Đường

luật nói riêng và thơ cổ trung Quốc nói chung lại có sự vượt lên, sự bứt phá bằng sáng

tác "nôm na" tiếng mẹ, tiếng của ruộng đồng, ca dao, tục ngữ, của "bè rau muống quê

nhà"; nét khu biệt về phong cách, về giọng điệu trong sự so sánh giữa thơ Hán và thơ

Nôm Nguyễn Trãi để thấy được nét riêng biệt và đặc sắc của QATT. Thơ Nguyễn Trãi

hòa quyện ba thứ triết học, mỹ học khác nhau: mỹ học Nho, mỹ học Thiền và có cả tư

tưởng thi pháp đạo gia. Ba thi pháp lớn tương ứng với ba triết học, ba mỹ học lớn của

phương Đông, của Việt Nam có mặt trong thi pháp thơ Nguyễn Trãi, và có thể xem

đây là một trường hợp đặc thù của thi pháp văn học Việt Nam.

Để hiểu được tính phức tạp, rộng lớn của những nét khu biệt trong thơ nôm

Nguyễn Trãi, chúng tôi đã liên hệ đến tất cả các sáng tác khác của Nguyễn Trãi (Bình

Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, thơ chữ Hán). Để hiểu thêm những dòng tâm sự

"đau đời thất thế", "ẩn ức trước thế sự", chúng tôi đã lí giải chữ "nhàn" trong QATT.

Và để thấy hết tâm vĩ đại của Nguyễn Trãi, chúng tôi đã tìm hiểu về thi pháp cái hàng

ngày trong QATT. Thi pháp không gian nghệ thuật đã lưu ý đến không gian ở ẩn và

trăng trong QATT; thi pháp thời gian nghệ thuật đã cho chúng ta thấy dư vị buồn tiếc,

xót xa của Nguyễn Trãi với những gì đã qua, những gì một đi không trở lại.

71

Chương 3: THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" VỚI CÁC

PHƯƠNG DIỆN: THỂ THƠ, ÂM VẬN, NGÔN NGỮ

3.1. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN THỂ

THƠ.

Nói tới thể loại Văn học là nói tới quy luật loại hình của tác phẩm tức là một sự

hệ thống hóa có tính chất ước lệ những tác phẩm có phương thức tổ chức, phương thức

tái hiện đời sống gần gũi nhau. (Ví dụ: thể loại trữ tình, thể loại kịch, thể loại tự sự...).

Như vậy, loại có ý nghĩa về quy luật loại hình, còn thể là biểu hiện cụ thể của loại

trong từng tác phẩm cụ thể. QATT thuộc vào loại thơ trữ tình, nhưng thể thơ chủ yếu ở

đây lại là thể thơ thất ngôn có chen câu lục ngôn (163/226 bài) - đây là điều mà luận

án quan tâm.

Một thời đại hoàng kim của thơ ca đời Đường (618 - 917) ở Trung Quốc đã để lại

cho nhân loại một kiểu thi luật nghiêm nhặt - Kiểu thơ "luật Đường" - Thơ luật Đường

được nhiều nước ở vùng Đông Nam Á vận dụng, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là

nước chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa Trung Hoa và sự kế thừa truyền thống thi

luật của thơ ca Trung Quốc vào sáng tác là điều tất yếu.

Vay mượn thi luật, vay mượn văn tự, thơ chữ Hán ở Việt Nam chủ yếu sáng tác

theo thể thơ cổ thể và thể thơ luật Đường của Trung Hoa. Sáng tác theo thể thơ luật

Đường phải đảm bảo các qui luật nghiêm nhặt về niêm, luật (bằng, trắc) vận, đối, tiết

tấu, bố cục..., trăm bài như một, cấu trúc theo một kiểu.

Như phần lý do chọn đề tài chúng tôi đã trình bày, có thể xem QATT là tập thơ

Nôm sớm nhất của Việt Nam hiện còn, mà tập thơ lại được sáng tác theo thể thơ luật

Đường có pha lục ngôn. Việc sử dụng câu lục ngôn là có dụng ý nghệ thuật hay là sự

thể nghiệm cách tân về hình.thức? Phải chăng con người vốn dĩ "Bình sinh độc bão

tiên ưu chí" (bình sinh có chí lo trước), vốn dĩ rất ý thức về nền văn hiến đất nước

(Duy ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang) muốn góp phần dân tộc hóa

một thể thơ ngoại lai để không thay đổi được ít nhiều thì chí ít cũng cấu trúc lại đôi

chút hình hài để phả vào đó cái hồn Việt Nam?

Ý thức dân tộc là ý thức thường trực trong lòng mỗi người dân Việt Nam, bởi vì

nước ta luôn bị sự đe dọa đồng hóa dân tộc của đế quốc phong kiến phương Bắc, thì 72

chỉ có ý thức dân tộc mới giữ được bản sắc văn hóa cho dân tộc mình. Việt Nam từng

vay mượn chữ Hán, nhưng lại sáng tạo ra chữ Nôm, Việt Nam cũng từng chịu ảnh

hưởng của văn hóa Hoa hạ, nhưng lại tiếp biến nó trên tinh thần dân tộc. Phạm Đình

Hổ trong "Vũ trung tùy bút" cũng dành giá về âm nhạc Việt Nam: "Tuy nhạc của ta

cũng có tiếng cao, tiếng thấp, tiếng đục, tiếng trong, ra vào chuyển hợp, đủ cả năm

cung bảy thanh, nhưng thuật đổi thay cung bậc, biến hóa tài tình từ điệu này sang điệu

khác, thì hoàn toàn không giống bên Trung Quốc". Xem thế, thì đủ biết rằng, người

Việt Nam rất có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Họ ý thức "Hảo bả văn

chương tăng quốc thể" (Phải giỏi lấy văn chương để nâng cao quốc thể - Lời của Lê

Quý Đôn tiễn thám hoa Nguyễn Đình Oánh đi sứ).

Ý thức dân tộc hóa văn chương, nhân dân hóa thơ ca là ý thức về quốc thể, là vũ

khí sắc bén đánh tan những luận điệu sỉ nhục của bọn đế quốc phương Bắc. Cao Hùng

Trưng dám ngạo mạn ghi trong cuốn An Nam chí rằng: "nước Nam từ khi có Giải Tấn

dạy bảo cho, mới biết xu hướng về văn chương". Kẻ nói câu đó chắc chắn thuộc hạng

người "ếch ngồi đáy giếng". Bởi vì, văn học viết Việt Nam tuy ra đời muộn (thế kỷ X),

nhưng văn học truyền miệng đã có từ rất sớm. Và do trình độ phát triển của các dân

tộc không đều nhau, do truyền thống văn hóa của mỗi nước một khác, cho nên sự vay

mượn thi luật ở Việt Nam với Trung Hoa là có, nhưng không có nghĩa là vay mượn

nguyên xi, mà người Việt luôn tiếp biến tinh hoa văn hóa nước ngoài trên cơ sở tính

dân tộc. "Tính dân tộc của loại thể không những biểu hiện ở những loại thể riêng biệt

của từng dân tộc, mà còn thể hiện ở những đặc điểm khác nhau của một số thể loại gần

gũi". (Phương Lựu, Tìm hiểu một nguyên lý văn chương Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1983, tr. 177).

Trên tinh thần đó, chúng tôi thấy với 163 bài có xen câu thơ lục ngôn trên tổng số

226 bài trong tập thơ QATT là một bằng chứng hùng hồn về ý thức dân tộc của

Nguyễn Trãi trong sáng tác thơ ca.

Tại sao Nguyễn Trãi không phá cách trong 90 bài thơ chữ Hán (chỉ có 2 bài theo

thể cổ thể - bài 48 và bài 87), mà phá cách vào trong 226 bài thơ chữ Nôm ? Phải

chăng, đã sáng tác bằng chữ Nôm - ngôn ngữ dân tộc, tác giả cũng muốn rộng đường

trong tư duy, nên đã tạo nên biến thể bằng việc xen vào câu lục ngôn. 73

Xét đến hiện tượng câu lục ngôn trong QATT, chúng ta cũng không thể bỏ qua

khái niệm: tính lịch sử của văn hóa. Bởi đặc tính này tạo cho văn hóa có bề dày, có

chiều sâu, và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại

và phân bố lại các giá trị. Văn hóa còn có giá trị tiếp nối, nên chúng ta không xét câu

lục ngôn trong QATT như là giá trị tự thân, mà xét nó trong mối quan hệ trước nó và

sau nó.

Hiện tượng thơ lục ngôn có từ thời tiên Tần, lưỡng Hán (Trung Quốc), có trong

văn học Triều Tiên, có trong thi ca của văn học truyền miệng Việt Nam (thơ lục bát,

tục ngữ)...Trong thơ chữ Hán thời Lí - Trần chúng tôi khảo sát thì tổng cộng có 18 câu

lục ngôn trong ba bài: Ở bài "Sinh tử" của Nguyễn Tuân ( ? - thời Lý) có 12 câu, 1 câu

6 chữ. Hai câu mở đầu trong bài "Phật tâm ca" của Trần Tung (1230 - 1291). Và một

bài thơ lục ngôn 4 câu "Nhàn cư lục ngôn đề thủy mặc tướng tử tiêu cảnh" (nhân lúc

rỗi, dùng thơ 6 chữ đề vào bức tranh nhỏ) của Phạm Mại. Những sáng tác sau QATT,

qua khảo sát chúng tôi thấy rằng: "Hồng Đức Quốc âm thi lập" cỏ 171/328 bài xen câu

lục ngôn, tỉ lệ: 52,13%; "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" (tập thơ này có một số bài trùng

với QATT), thì có 85/161 bài có xen câu thơ 6 tiếng (tỉ lệ 52,8%).

Khảo sát 226 bài thơ trong QATT, chúng tôi thấy có các dạng sau:

- 180 bài theo thể thất ngôn bát cú, có 46 bài theo thể thơ luật Đường (2, 24, 29,

30, 32, 43, 46, 47, 48, 49, 57, 59, 68, 71, 72, 75, 81, 82, 83, 103, 106, 109,111, 117,

118, 119, 120, 122,123, 128, 131, 133, 140, 141, 142,145, 152, 156, 157, 158, 160,

171, 173, 178, 181,188), 2 bài xen ngũ ngôn (53 và 182), còn lại 160 bài có xen câu

lục ngôn; tỉ lệ (132/180) là 73,33%.

- 46 bài thất ngôn tứ tuyệt, có 21 bài theo thể thơ luật Đường (196, 239, 240, 244,

245) và 25 bài xen câu lục ngôn, tỉ lệ (25/46) là 54,3%.

Tổng số câu lục ở hai thể thơ được thống kê như sau:

- Thể thất ngôn bát cú: tổng cộng 340 câu (138 bài), tỉ lệ (340/1104) là 30,8%,

nằm vào các vị trí: 74

Dòng (

1

) 1: 46 câu. Dòng 2: 39 câu. Dòng 3: 48 câu. Dòng 4: 48 câu. Dòng 5: 45

câu. Dòng 6: 45 câu. Dòng 7: 33 câu. Dòng 8: 38 câu.

(Chú trọng cấu trúc đối, ở liên 2 và liên 3 số câu lục bằng nhau và nhiều hơn các liên

thơ khác).

- Thể thất ngôn tứ tuyệt có tổng số 35 câu, tỉ lệ (35/100 - ở 25 bài) là 35%, ở các

vị trí sau:

Dòng 1: 8 câu. Dòng 2: 9 câu. Dòng 3: 8 câu. Dòng 4: 10 câu.

Tổng số câu lục ở hai thể loại là 375 câu, chiếm tỉ lệ đáng để khảo cứu ở hai

phương diện: Tại sao Nguyễn Trãi sử dụng nhiều câu lục xen vào thơ luật Đường và sử

dụng như vậy có phá vỡ niêm luật của bài thơ hay không?

Tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước khi trở thành của chung của nhân loại, là

sản phẩm riêng biệt của con người riêng biệt. Con người đó để lại dấu ấn trong "con

đẻ" của mình. Để biểu hiện tư tưởng tự do, phóng khoáng, một tâm hồn thơ dạt dào, Lí

Bạch dã vận dụng cả thể thơ nhạc phủ, ca hành, cổ phong vào sáng tác thơ của mình,

dù ông là nhà thơ tiêu biểu của thời thịnh Đường. Và, Nguyễn Trãi cũng muốn tự do,

phóng khoáng trong diễn đạt, rộng đường trong tư duy, đã dưa câu lục ngôn vảo thể

thơ luật Đường, đồng thời cũng để lại cho đời một cống hiến có tính khai phá.

Phải chăng Nguyễn Trãi muốn đi theo hướng kiệm lời - "Thơ phải được ý ở ngoài

lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của người làm thơ cho nên ý thừa

hơn lời thì lũy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy công phu mà vẫn vụng. Còn như

ý hết mà lời cũng hết thì không đáng là người làm thơ vậy (Ngô Lôi Pháp); muốn học

tập cổ thi, và đặc biệt muốn vận dụng câu thơ dân gian vào trong câu thơ viết để góp

phần bảo tồn nét văn hóa dân tộc? Việc sử dụng câu lục ngôn vào bài thơ với một tần

số lớn như thế (72,12 %), chứng tỏ rằng "Chỉ có khi nào anh hiểu luật thì anh mới có

thể tự cho phép mình có ngoại lệ hoặc phát triển luật mới" (Johames Robert Becher).

Có giả thiết cho rằng: câu lục ngôn có khả năng do biến âm tiếng Việt cổ mà

chuyển thành; kl, t'l/tr; kl, tl, bl/s, km/m... [72], bl/tr [101: 23, 24])...

(1) Ở thể thơ luật Đường, 1 câu thơ nằm trọn trong một dòng, chúng tôi dùng chữ dòng phân

biệt với số câu cho rõ ràng 75

Hiện tượng âm dính nay vẫn còn rớt lại trong cách phát âm của một ít người già

ở vài địa bàn nhỏ hẹp vùng sâu vùng xa (như một vài nơi ở huyện Tuyên Hóa - Quảng

Bình còn nói cây t'le - cây tre, con t'lâu - con trâu).

Âm dính, biến âm là một thực tế có trong tiếng Việt cổ, nếu có chứng tích trên

chữ Nôm thì có thể có ảnh hưởng đến câu văn, câu thơ. Tuy nhiên, điều đó đã ảnh

hưởng thế nào đến cơ số câu thơ QATT thì đến nay vẫn chưa có một công trình nào

khảo cứu trực tiếp, giải quyết thấu dáo.

Chúng tôi xin đưa ra một số ví dụ về câu thơ hội đủ 7 tiếng trong QATT lại mang

trong nó ít nhất là một tiếng có phụ âm đầu là âm dính:

Ví dụ 1: "Thế sự người no ổi tiết bảy,

Nhân tình ai ỏ cúc mồng mười" (Bài 22)

Ví dụ 2: "Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc,

Nước chảy âu khôn xiết bóng non" (Bài 49)

Ví dụ 3: "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có tri, có anh hùng" (Bài 132)

Ví dụ 4: "Chớ người trọc trọc chớ ta thanh

Lấy phải thì trung đạo ở kinh" (Bài 156)...

Trong 4 ví dụ nêu ra ở trên, những tiếng có dấu gạch ngang đều là những tiếng có

phụ âm đầu là âm dính (m, s, tr...). Vậy, sẽ giải thích như thế nào cho thỏa đáng hiện

tượng câu thơ QATT vừa đủ 7 tiếng, vừa có một số tiếng mang trong mình nó phụ âm

đầu là âm dính của tiếng Việt cổ? Mặt khác, các công trình khảo cứu chỉ mới tìm ra

một số tiếng Việt cổ có phụ âm đầu là âm dính, trong lúc tiếng Việt có đến 17 phụ âm

đầu.

Tiếng Việt cổ đã trưởng thành dần qua thời gian và qua giao tiếp của cộng đồng

người Việt. Năm 1010, Lí Thái Tổ dời dô từ Hoa Lư ra Đại La. Đến thời Nguyễn Trãi,

Thăng Long đã trải qua 4 thế kỷ con người của 4 phương 8 hướng tụ hội về. Lẽ đương

nhiên, do nhu cầu giao tiếp, tiêu chuẩn, trước nhất là phải ăn nói cho tròn vành rõ

tiếng, ngôn ngữ chốn đế dô sẽ loại bỏ dần những yếu tố khó nghe, khó nói, khó viết...

Nguyễn Trãi là người ý thức rất rõ về nền văn hiến Đại Việt, hẳn là ông sẽ rất thận 76

trọng trong việc dùng chữ, đặt câu sao cho vừa bảo tồn vừa làm giàu lên nét văn hóa

truyền thống.

Hơn nữa, đưa câu thơ lục ngôn vào thơ thất ngôn, Nguyễn Trãi còn đưa luôn vào

câu thơ ấy sự cải biên nhịp thơ. Nhịp cố hữu của thơ thất ngôn Đường thi là nhịp chẵn

lẻ 4/3 hoặc 2/2/3. Nhịp chẵn lẻ là nhịp âm dương được kết hợp với cơ số 7 tiếng, cơ số

7 vốn là một vòng số màu nhiệm ứng với nhiều chuyện ở đời. Câu thơ 7 tiếng vững

chãi, cố định, quen thuộc trong thi pháp cổ điển, câu thơ 7 tiếng có ưu thế ngoại đối

trong vị trí các cặp câu đối xứng, nhưng lại hạn chế trong phép nội đối, bởi số âm tiết

lẻ.

QATT vẫn lấy nhịp chẵn/lẻ làm nền: Nhịp 4/3: 1116/1241 câu, nhịp 2/2/3: 9/1241

câu, tổng cộng: 1125/1241 câu (tỉ lệ: 90,66%).

Nhưng, trong số 375 câu lục ngôn có các dạng nhịp cơ bản sau đây: nhịp 2/2/2 có

132 câu (tỉ lệ 35,2 %), nhịp 3/3. có 213 câu (tỉ lệ 56,8%), nhịp 2/4 có 19 câu (tỉ lệ

5,1%), nhịp 4/2 (tỉ lệ 1,6%), nhịp 1/5 có 5 câu (tỉ lệ 1,3%).

Nhịp 3/3 thiết lập trên cơ sở mã đối xứng của thi ca nói chung, của thành ngữ, tục

ngữ dân gian nói riêng. Khi mã đối xứng xuất hiện thì tạo ra quan hệ và nảy sinh tư

duy. Thơ Đường hay bởi lẽ nó tạo ra quan hệ, gợi mở tư duy. Nhịp thơ 3/3 làm nhịp

câu thơ chậm lại, cân đối, hài hòa, có sức khái quát cao, có tính triết lý sâu sắc. Tính

chất hoàn chỉnh cân đối của các câu lục đưa đ ến cho các nhịp đôi của câu thơ cái vẻ

trọn vẹn của một tư tưởng gẫy gọn, rất thích hợp để khẳng định một sự thực của lí trí

hay của tâm trạng. Câu lục có nhịp 3/3 sử dụng phép đối thì ý tưởng càng rõ, lúc này

tận dụng được cả phép nội đối lẫn phép ngoại đối (ưu thế hơn so với câu thơ 7 ch ữ).

Trong QATT câu lục loại nhịp 3/3 nằm rất nhiều vị trí: ở dòng 1, ở dòng kết, hoặc là ở

liên 2, liên 3 của bài thơ - tạo cảm giác mạnh về nội dung biểu đạt.

Ở vị trí dòng 1 (câu 1) câu lục thường có cách diễn đạt của tục ngữ, thành ngữ:

Ví dụ:

- " Sang cùng khó bởi chưng trời" (Ngôn chí, 10).

- "Vàu làm chèo, trúc làm nhà" (Trần tình, 39).

- "Lồng lộng trời, tư chút đâu" (Trần tình, 40). 77

Nhịp của các câu thơ này là nhịp 3/3, nhịp cân đối, rắn chắc, diễn tả được ý

tưởng triết lý về nhân sinh, thế sự. Giọng điệu bình thản trước hiện thực đã được nhận

thức có tính quy luật, vì thế câu lục ở vị trí này tạo được sự gãy gọn từ trong ý tưởng.

Ở vị trí câu kết, câu lục thường tạo cảm giác đột ngột, phù hợp với tính chất gân

guốc, tân kỳ của tứ thơ: Ví dụ:

- "Trời ban tối ước về đâu?" (Ngôn chí, 14).

- "Rêu bủi bủi, thấy tiên đâu?" (Trần tình, 41) ~

- "Nẻo có nghèo thì có an" (Tức sự, 144).

Ở liên thơ 2 và 3, những liên thơ thường sử dụng phép đối, câu lục lại diễn tả

được tâm trạng vướng vít, trăn trở, suy tư, tâm trạng "nhàn" của nhà thơ trước thế sự,

cuộc đời. Ví dụ:.

"Muối lẫn dưa dầu đủ bữa

Thêu cùng gấm mặc chưng đời.

Công danh bịn rịn già lủ

Tạo hóa đong lừa trẻ chơi". (Bài 104)

Ở 4 câu lục này tác giả sử dụng phép đối, nhưng để diễn tả hai ý tưởng mâu

thuẫn trong tâm trạng của mình tác giả đổi nhịp từ liên 2 sang liên 3. Nhịp 3/3 ở liên

thơ thứ 2 rắn chắc, cân đối nhằm khẳng định triết lý sống thanh bạch, đạm bạc. Nhưng

nhịp 2/2/2 ở liên thơ thứ 3 lại tạo âm hưởng day dứt về công danh sự nghiệp bị ngáng

trở mà thời gian đời người thì trôi nhanh và tâm hồn trĩu nặng nỗi ưu tư về cuộc đời

trớ trêu, đen bạc.

Mã đối xứng không phải là đặc điểm riêng của ngôn ngữ văn học Việt Nam,

nhưng lúc cắt bớt một tiếng của câu thơ thất ngôn, đưa vào đó nhịp 3/3 cân xứng,

Nguyễn Trãi đã vận dụng thế mạnh của nhịp 3/3 trong câu thơ dân gian để tạo nên câu

thơ lục ngôn đậm đà bản sắc dân tộc. Loại nhịp này, trong thơ Quốc âm của Nguyễn

Bỉnh Khiêm cũng chiếm một tỉ lệ là 62,7% (116/185 câu), Truyện Kiều của Nguyễn

Du cũng có đến 80/1627 câu lục có nhịp 3/3 (tỉ lệ 4,9%).

Có nhiều bài tác giả sử dụng số lượng câu lục ngôn là từ 5 đến 7 câu (có 4 bài

loại 6 câu: 21, 26, 93, 98, và 2 bài loại 7 câu: 64, 110).

78

Ví dụ: ở bài 98 có câu 1 và 8 là câu thất, còn 6 câu là lục ngôn:

(Non tây bóng ác đã mằng tằng)

Nhìn đỉnh tùng thu vãng chừng

Thư nhạn lạc lài khi gió

Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng

Gia san cũ còn mường tượng

Thân sự già biếng nói năng

Khó ngặt qua ngày xin sống.

(Xin làm đời trị mấy đời bằng)..

Bài thơ mở đầu bằng một câu thất, miêu tả không gian, thời gian "xế tà" "Non tây

bóng ác đã mang tằng". 6 câu lục tiếp theo diễn tả mâu thuẫn đang giằng xé trong nội

tâm. Dù "Thân sự già biếng nói năng", nhưng tâm hồn "khắc khoải mong chờ "thư

nhạn", với quyết tâm: "Khó ngặt/ qua ngày/ xin sống". Nhịp thơ đều đặn 2/2/2 ở câu

thơ này biểu hiện niềm tin và tấm lòng đau đáu lo đời câu kết trở lại 7 chữ với khát

vọng: "Xin làm đời trị mấy đời bằng". Bài thơ lấy câu đầu, câu cuối làm dấu niêm

(tương đối lỏng lẻo - vì chỉ có một cặp câu) để "dán" chặt bài thơ lại, trong khi đó 6

câu giữa tự do dùng ngôn ngữ để biểu hiện một tâm trạng vướng vít, trăn trở; với tâm

trạng đó cần gì phải đa ngôn, càng ít lời càng có sức nặng trí tuệ, càng chứng tỏ nỗi

sầu muộn chứa chất nặng đầy trong cõi lòng bề bộn suy tư.

Nhiều câu lục có cách diễn đạt rất hiện đại - "Gia sơn đường cách nghìn dặm, Sự

nghiệp buồn đêm trống ba" (Tự thán, 94) - Vì "gia sơn" xa cách mà buồn vào lúc trống

điểm canh ba. Sau này Hồ Chí Minh cũng ba canh không ngủ, để đến khi chợp mắt lại

mơ thấy "sao vàng năm cánh" (Không ngủ được - Nhật ký trong tù).

Thơ ca không chỉ có tự sự, mà còn miêu tả, biểu hiện, nên việc sử dụng câu lục

ngôn - câu thơ đã có trong tục ngữ, ca dao của văn chương Việt Nam để đưa vào đó

các loại nhịp 3/3, 2/2/2, 2/4, 4/2, 1/5 thì vấn đề không chỉ là ý thức dân tộc nữa, mà cái

chính là từ nghệ thuật, từ mục đích của nghệ thuật. Mỗi khi câu thơ vừa cố ý kiệm lời,

vừa cố ý thay đổi nhịp điệu, thì chắc chắn ở đó có dụng ý nghệ thuật của nhà thơ

(trường hợp câu thơ mở đầu và kết thúc trong bài "Thủ vĩ ngâm" là một ví dụ: "Góc 79

thành Nam, lều một căn" - câu thơ nhắc lại hai lần, với nhịp 3/3, với phép đối xứng đã

nhấn mạnh tình thế oái oăm, tù hãm của nhà thơ trong tình thế "góc", "lều").

Như vậy bản sắc dân tộc không phải là sự gượng ép, mà bắt đầu từ nghệ thuật.

Văn hiến bắt nguồn từ nghệ thuật thì nền văn hiến đó càng trường tồn. Thế giới có

những giá trị văn hóa mãi mãi tồn tại với thời gian. Ai xóa được thần thoại Hy Lạp, ai

xóa được I-li-át và Ôđixê, ai quên được Truyện Kiều của Nguyễn Du...

Sử đụng câu thơ 6 tiếng, là đã phạm vào niêm của bài thơ, một ngòi bút xuất sắc

như Nguyễn Trãi lẽ nào không biết điều đó? Biết mà vẫn cố ý phạm luật, vậy có thể

xem đây là thể nghiệm của Nguyễn Trãi, và thể nghiệm này có thể xem là thành công

ở phương diện khai phá, vượt lên lối mòn quen thuộc, vượt lên sự lệ thuộc vào một thể

thơ ngoại lai. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước khi trở thành của chung của nhân

loại, là sản phẩm riêng biệt của con người riêng biệt. Con người đó để lại "dấu ấn"

trong con đẻ của mình. Việc vận dụng các loại nhịp đa dạng trong câu lục đều nhằm

mục đích phát huy hết khả năng biểu hiện nội dung của nó. "Thơ lục ngôn thể hiện nổ

lực của tác giả trên còn đường tìm tòi một thể thơ dân tộc ít nhiều thoát li Đường luật

trong khi vẫn giữ phong cách chung của thơ Đường luật. Thơ Đường luật có pha lục

ngôn sẽ ít thấy từ thế kỷ XVIII trở đi, vì khi ấy thể thơ yêu vận như song thất lục bát

và lục bát đã đủ thành thục để đáp ứng một cách thích hợp với cảm quan về âm điệu

của người Việt cũng như yêu cầu phản ánh của thơ ca Việt" [52: 34].

Nguyễn Trãi có sử dụng câu thơ 5 chữ ở hai bài, bài 53 (câu 5, 6):

"Trẻ hòa sang ấy phúc,

Già được lọn là tiên"

Và bài 182 (câu 7, 8).

"Già mặc số trời đất.

Giàu ai qua vợ con".

Có lẽ đây cũng chỉ là thử nghiệm, thấy không phù hợp, nên thôi. Chắc rằng tác

giả không muốn sử dụng loại câu thơ vốn đã có thi luật nghiêm chỉnh trong thể loại

của nó (ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt đời Đường); cũng có thể câu ngũ ngôn (5

âm tiết) chen vào câu thất ngôn (7 âm tiết) là không phù hợp; cũng còn vì câu lục ngôn

vốn sẵn có trong thơ ca truyền miệng nên có thể đưa thử vào thơ luật Đường (thể loại 80

vừa có tính ổn định vừa có tính biến đổi). Đã sử dụng được câu lục ngôn, tại sao

Nguyễn Trãi không dùng thể thơ yêu vận dân tộc (vần bằng); thể loại này có trong văn

học truyền miệng (trước cả văn học viết), có lẽ có nguyên nhân của nó.

Thơ lục bát là thể thơ thuần túy dân tộc, gieo vần chân và cả vần lưng (ở Trung

Quốc không có) và do khuôn khổ của một đơn vị cơ bản về thi luật nhỏ bé (chỉ có 14

tiếng trong 2 dòng thơ); cách gieo vần cũng như quan hệ bằng trắc đơn giản nên thể

hiện loại này vừa mang đầy đủ phẩm chất của một hình thức thơ ca, lại gần với ngôn

ngữ văn xuôi, nó thích hợp với loại văn tả cảnh, tả tình, kể chuyện, có thể co lại (chỉ là

một cặp lục bát) hay giãn ra (dài đến vài nghìn câu - như "Truyện Kiều" của Nguyễn

Du dài đến 3254 câu thơ...). Vậy ở phương diện thể thơ, thơ lục bát đã đ ạt đến vị trí

cao trong nền văn học dân tộc.

- Thơ ca bác học trong suốt thời kỳ đầu thuần túy sáng tác theo thể thơ cổ thể và

thơ luật Đường của Trung quốc, nên Nguyễn Trãi muốn đột phá vào nó để tạo thêm sự

đa dạng của thể loại trong văn học viết Việt Nam.

Vậy, câu lục ngôn là một thể nghiệm của Nguyễn Trãi, thể nghiệm này có thành

công hay không? Sự thành công hay thất bại được nhìn nhận theo mức độ và thời

điểm.

Vào thời điểm thế kỉ XV (QATT hiện nay được xem là tập thơ Nôm đầu tiên ở

nước ta), thì việc sử dụng câu lục ngôn xen vào thể thơ Đường luật là biểu hiện ý thức

dân tộc, ý thức trở về cội nguồn, và để lại dấu ấn sáng tạo đối với lịch sử.

Nhưng ở phương diện kế thừa, ta thấy từ sau thế kỷ 16 (Sau "Hồng đức quốc âm

thi tập", "Bạch vân quốc ngữ thi tập"...) thì rất ít nhà thơ sử dụng câu lục ngôn như

kiểu Nguyễn Trãi. Các nhà thơ làm thơ nôm từ thế kỷ 17, 18 trở đi lại trở về niêm luật

nghiêm nhặt của thơ luật Đường, ngay Hồ Xuân Hương - "Bà chúa thơ nôm", chúng ta

cũng chỉ tìm được một vài câu lục mở đầu của một bài thơ luật Đường mà thôi.

Ví dụ:

- "Chàng Cóc ơi ? Chàng Cóc ơi" (Khóc Tổng Cóc).

- "Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta" (Sư hổ mang).

- "Anh đồ tỉnh, anh đồ say" (Trách Chiêu Hổ).

- "Tình cảnh ấy, nước non này" (Một cảnh chùa). 81

Tuy từ thế kỉ XVII, XVIII trở đi, ít có sự sử dụng câu lục ngôn, nhưng lại có một

thể thơ mới của dân tộc - thể "song thất lục bát"? Khi câu lục ngôn được xen vào thơ

thất ngôn luật, thì "cặp lục bát", vốn là của dân tộc, dễ dàng kết hợp được với cặp

"song thất". Khi câu thất đã được dân tộc hóa qua việc thay đổi tiết tấu, nhịp điệu

(cũng như câu thất ngôn của Trung Quốc, câu thất ngôn của Việt Nam dựa vào 3 tiết

điệu - quy luật đối lập thanh điệu. Chỗ khác nhau căn bản là: "Thất ngôn Trung Hoa

khởi phát từ số chữ chẵn cân đối, tề chỉnh để tiến lên thế số chữ lẻ bay bướm, thanh

thoát. Đó là cái thế vươn lên của thảo mộc. Thất ngôn Việt khởi phát từ số chữ lẻ nhẹ

nhàng, thanh thoát để tiến đến số chữ chẵn tề chỉnh, cân đối. Đó là cái thế xây dựng

kiên cố của gỗ đá. Người Việt có lối cảm nghĩ riêng, cho nên có một cơ sở thi pháp

riêng." (Lam Giang (1994), Khảo luận về thơ, Nxb Đồng Nai, Tr.27, 28).

Câu thất - âm tiết lẻ trong một dòng thường có kết cấu lỏng lẻo, dễ kéo dài, dễ

thay đổi. Câu lục - âm tiết chẵn, thường có xu hướng cố định, khó phát triển, nên sau

cặp câu lục bát chỉ có thể phát triển thêm một cặp câu thất là phù hợp, và ngược lại sau

cặp câu thất có quyền kéo thêm cặp câu lục bát.

Thơ Việt Nam sử dụng hai loại vần: cước vận, yêu vận (vần chân, vần lưng), thơ

Trung Quốc chỉ sử dụng một loại vần - cước vận. Nếu câu thất đã "dân tộc hóa", thì

cũng có thể sử dụng cả vần chân và vần lưng, và nếu cặp câu thất nào chỉ sử dụng vần

lưng mà lại trắc (không có vần chân nghỉ ngơi) sẽ tạo cảm giác về sự dở dang, tắc

nghẹn, đòi hỏi một sự thư giãn, tuôn trào, lúc đó cặp câu lục bát với âm điệu man mác

sẽ đáp ứng được yêu cầu đó. Câu thất với tiết điệu lẻ nhịp lẻ, tạo âm hưởng rắn rỏi, sắc

cạnh; cặp câu lục bát với tiết điệu chẵn, nhịp chẵn (2/2/2) tạo âm hưởng cân đối, nhịp

nhàng, đều đặn, phù hợp với việc biểu hiện tâm trạng. Đó là nỗi lòng của người cung

nữ bị "bỏ rơi, ruồng rẫy", nỗi lòng sầu muộn của người chinh phụ chờ đợi chồng vô

vọng, mỏi mòn:.. và thể loại này đạt đến đỉnh cao của văn chương thế kỉ 18 - 19 - thời

kì suy tàn của xã hội phong kiến, thời kì mà thân phận con người được quan tâm, được

nhìn nhận đúng vị trí của nó. Nếu Nguyễn Du đưa thể lục bát đến đỉnh cao của nó qua

"Truyện Kiều", thì Phan Huy Ích (hay Đoàn Thị Điểm?) đưa thể loại song thất lục bát

đến đỉnh cao qua bản dịch "độc nhất vô nhị" - "Chinh phụ ngâm", và Nguyễn Trãi lại

là người đưa được câu lục ngôn vào thể thơ luật Đường ở thế kỉ XV, dân tộc hóa một 82

thể loại thơ ca, thể hiện ý thức độc lập dân tộc - một ý thức thường trực trong suốt

cuộc đời chiến đấu không mệt mỏi của nhà thơ.

Tuy trong nhiều bài thơ, sự lạm dụng câu lục ngôn cùng một kiểu cấu trúc dễ làm

cho nhịp thơ đơn điệu và câu thơ thiếu âm hưởng, và đôi khi vì muốn vượt qua sự gò

bó của thơ luật Đường mà không tạo được sự hài hòa cần thiết. Nhưng công đầu của

Nguyễn Trãi trong việc cách tân thể loại là điều mà lịch sử phải ghi nhận, có ý thức đó,

sau này mới có thêm nhiều thể thơ mang đậm màu sắc dân tộc.

Sử dụng được câu lục ngôn ở rất nhiều vị trí trong bài thơ, với nhịp điệu hết sức

đa dạng, biến ảo, chứng tỏ người sử dụng nó thành thạo trong thi pháp của mình. Việc

xen câu lục ngôn vào trong bài thơ luật là thành công của Nguyễn Trãi trên phương

diện nghệ thuật, phương điện thể thơ, phương diện tinh thần. "Cái gì đã tới Việt Nam

thì cũng Việt Nam hóa như thế nào đó và sẽ xứng đáng là con cháu Việt Nam (Tố Hữu,

(1 - 1981), Nghiên cứu nghệ thuật, tr. 7).

3.2. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN ÂM

VẬN

3.2.1. Nhịp điệu:

Theo Henri Meschomic ("Các hình thức văn học", người dịch: Xuân Lộc, tài liệu

của Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh): Nhịp điệu về bản chất là một sự quay lại

(retour), theo những khoảng cách ít nhiều bằng nhau, của một yếu tố không đổi được

dùng làm mốc. Vật làm mốc có thể mang tính vật lí (một điệu bộ, động tác), tính thính

giác (một âm thanh hay tiếng động), tính thị giác, hoặc tính thiên nhiên (chu kì bốn

mùa, trật tự ngày đêm), tính sinh lí (nhịp tim hay hơi thở) hoặc tính nghệ thuật (những

yếu tố trong một bản nhạc hay trong một bài thơ). Nhịp của vũ trụ và nhịp của sinh

học vừa có vẻ hài hòa (theo chu kì cố định), vừa có vẻ thất thường (khi xảy ra biến

cố)... Dễ hiểu được rằng nhịp điệu không phải là cái gì đó đặc thù của văn học, và cả

của ngôn ngữ nữa. Có các nhịp điệu của thiên nhiên và của công việc, nhịp điệu của

tín hiệu ánh sáng, của âm nhạc...

Thơ là tiếng nói của trái tim (xúc cảm), trái tim của con người là biểu hiện cụ thể

nhất của quy luật nhịp điệu. Nhịp thơ là nhịp điệu có tính chất nghệ thuật do con người

sáng tạo ra để biểu hiện xúc cảm, tình cảm của mình. Nhịp thơ còn dựa vào bản chất 83

của chất liệu ngôn ngữ (ngôn ngữ Việt Nam có 6 thanh điệu - lên bổng xuống trầm với

các gam thanh sắc khác nhau), dựa trên cơ sở sự lặp lại hay luân phiên của các đơn vị

âm tiết và sự cấu tạo đơn vị ngữ điệu của ngôn ngữ.

Nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ. "Nhịp là tiếng vang có ý nghĩa" (the rhythm

is an echo of the sence) [152: 206]. Theo Gớt: "Nhịp điệu là đặc tính nguyên thủy của

thơ", còn Maiacôpxki cho rằng: "Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản

của câu thơ". Và Mai Quốc Liên lại lưu ý: Nhịp điệu vừa là hình thức, vừa là nội dung:

"Nhịp điệu không phải là vấn đề hình thức, mà là hình thức mang tính nội dung, bởi vì

nhịp của bài thơ thể hiện cảm hứng, thể hiện cách cảm thụ cuộc sống của thi sĩ". [79:

96]

Còn Hêghel lại cho rằng: Nhịp trong thơ đưa các trật tự vào tình trạng không có

trật tự... Khi lựa chọn sử dụng từ, nhịp trong thơ giúp cho con người trong giây lát

thoát khỏi sự trôi chảy liên miên của thời gian, con người đánh dấu điểm đầu, điểm

giữa và điểm cuối của sự tiếp tục bằng nhịp thơ.

Quy luật của nhịp điệu: Không ngắn quá để còn có thể nghe được, không dài quá

vì còn phụ thuộc vào nhịp thở, chỗ ngắt để nghỉ khi thở. Đối với thơ nhịp của nó còn

mang tính nhạc, nên phải có quy luật phối âm (bằng / trắc), có quy luật lặp lại láy lại

trong tâm tưởng để đem lại dư âm vang vọng và ngân vang trong tâm thức con người.

Nhịp một bài thơ cũng như nhịp một bản nhạc, trên cơ sở nhịp cơ bản, cố định để

tạo ra các biến thiên và các biến thiên đó mang lại tính đa dạng. Càng đa dạng càng

hay (tất nhiên không nên lạm dụng quá).

Thơ Trung quốc ngắt nhịp chẵn / lẻ (2/2/3 hoặc 4/3 - âm / dương) là cố định (vì

câu thơ Trung Quốc thường có dạng âm tiết lẻ - ngũ ngôn hoặc thất ngôn), hầu như

không có ngoại lệ, khiến cho âm dương xen kẽ, chẵn lẻ luân chuyển nhịp nhàng và hài

hòa (do quan niệm số chẵn là số âm, số lẻ là số dương), nhịp chẵn / lẻ cũng là sự hô

ứng tự nhiên với nhịp điệu của vũ trụ.

Với ý thức dân tộc hóa văn chương, các nhà thơ cổ điển Việt Nam dù có vay

mượn hình thức thể loại của thơ ca Trung Quốc, dù lấy nhịp thơ chẵn / lẻ (2/2/3 hoặc

4/3) làm chuẩn, nhưng họ vẫn căn cứ vào nhịp ngắt sinh học, tâm lí, cách biểu cảm

riêng của người Việt Nam để tạo ra nhịp lẻ / chẵn (3/2/2 hoặc 3/4) - nhịp thơ thuần túy

Việt Nam (nhịp phổ biến của cặp song thất trong thể thơ song thất lục bát). 84

Căn cứ vào đặc điểm của 226 bài thơ trong QATT tồn tại chủ yếu ở hai thể loại:

Thất ngôn bát cú và thất ngôn tuyệt cú ở hai dạng câu thất ngôn và lục ngôn, nên

chúng tôi xin đưa sơ đồ luật bằng trắc của thể thất ngôn bát cú để khảo cứu:

Luật bằng:

B B T T T B B

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

Luật trắc:

T T B B T T B

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

T T B B B T T

B B T T T B B

B B T T B B T

T T B B T T B

Nhìn vào bảng dấu thanh chúng ta thấy, cứ ba câu có sự phối thanh lặp lại tạo nên

sự hồi hoàn về âm điệu và điểm dừng nhịp như một vách tường gây nên sự va chạm và

những làn sóng nhịp điệu kéo đến vỗ vào rồi tạo âm hưởng dội lại làm nảy sinh sự

chuyển vận năng động của câu thơ.

Thanh điệu (bằng - trắc) luân phiên trong câu thơ theo một trật tự được xác lập

chặt chẽ, mà mục đích của nó là xóa bỏ đơn điệu về mặt âm điệu, tạo cho thơ một nhạc

tính, mang lại cho nó một làn điệu khi lên cao, khi lưng chừng, khi xuống thấp (theo

đặc điểm của âm vực thanh điệu: âm vực cao (không dấu, dấu ngã, dấu sắc), âm vực 85

thấp (huyền, hỏi, nặng), và cái sóng âm lúc đều đặn, lúc gấp khúc mang lại cho câu thơ

nhịp điệu.

Tào Phi (con Tào Tháo thời Tam quốc) còn căn cứ vào quan điểm triết học về khí

mà cho rằng: Văn có khí trong - đục, thể hiện "trong" là dương, "đục" là âm, chúng

quy định lẫn nhau, luân phiên nhau làm cơ sở cho nhịp điệu của vũ trụ và do vậy mà

được thể hiện trong nhịp điệu của câu thơ.

Nhịp điệu còn giữ vai trò phân ranh giới và liên hệ giữa các từ (thường là hư từ

trong ngôn ngữ thông thường), do đó, ở mức độ sâu hơn, nhịp điệu còn có ý nghĩa

giảm thiểu rất nhiều hư từ, nhằm đưa vào cho ngôn ngữ một kích thước về độ sâu, và

đó là kích thước của cái "hư" thực sự (Phần này chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn ở thi

pháp ngôn ngữ).

Khảo sát ở 1241 câu thất (ở 226 bài, trừ 375 câu lục ngôn, trừ 4 câu ngũ ngôn và

trừ 4 câu thiếu ở 3 bài: 249, 252, 254), chúng tôi thấy có 4 dạng nhịp cơ bản sau:

- Nhịp 4/3: 1116 câu/1241 câu, tỉ lệ 89,93%.

- Nhịp 2/2/3: 9 câu/1241 câu, tỉ lệ 0,73%.

- Nhịp 3/4: 55 câu/1241 câu, tỉ lệ 4,43 %.

- Nhịp 2/5: 22 câu/1241 câu, tỉ lệ 1,77%.

Như vậy, ở 226 bài thơ trong QATT nhịp của câu thất ngôn là nhịp 4/3 làm nền

(tỉ lệ 89,93%), đó là nhịp điệu tuần hoàn, nhịp nhàng, hài hòa của vũ trụ. Ở nhiều bài

thất ngôn bát cú, nhịp này duy trì từ đầu đến cuối và nhịp này thường có ở những bài

xen nhiều câu lục ngôn.

Ví dụ: Bài thơ "Thủ vĩ ngâm"

Nhịp của 4 câu thơ đ ầu (từ câu 1 đến câu 4) là nhịp 3/3 (câu lục) - tạo ấn tượng

mạnh về ý tưởng của hai vế đối nhau và cảm giác về một sự việc bất bình thường (vì

"no" nước, "thiếu" cơm...), nhưng đến câu 5, 6 chuyển sang nhịp 4/3 của câu thất đưa

lại cảm giác thư thái, khoan hòa của một tâm trạng đã thăng bằng trở lại:

"Ao vợi hẹp hòi / khôn thả cá.

Nhà quen xú xưa / ngại nuôi vằn".

Hoặc ở bài "Tùng" (bài 1, 218), câu 1 nhịp 2/5, câu 2 nhịp 3/3 (câu lục), câu 3

nhịp 2/5 trở lại, đến câu 4 nhịp 4/3 lại biểu hiện một chân lý: 86

"Tài đống lương cao / ắt cả dùng".

Tiếng "ắt" (trắc) sau tiếng "cao" (bằng) ngay ở mắt thanh điệu biểu hiện một sự

dừng lại (tạm thời), điểm dừng này cũng là điểm lưu ý người đọc hãy đón nhận điều

khẳng định dứt khoái của mình: Có tài đống lương / tất được dùng. Ý tưởng đó được

tác giả tiếp tục thể hiện qua bài 2 (219)...

Ngoại trừ những bài thơ thất ngôn bát cú duy trì nhịp 4/3 từ đầu đến cuối (bài 32,

42, 145, 156, 171, 178, v.v...) mang âm hưởng cổ điển, thì những câu thất nhịp 4/3 ở

trong các bài có xen câu lục ngôn nhiều khi giữ lại cân bằng sau nhịp gấp (3/3), nhịp

mạnh (2/4 hoặc 4/2), nhịp vừa phải (2/2/2) của câu lục, và loại nhịp đó đưa lại âm

hưởng hài hòa giảm bớt sự căng thẳng trong trạng thái tinh thần có nhiều ẩn ức. Nhịp

4/3 vừa duy trì, vừa tạo sự chuyển đổi cho tâm thế. Và nhịp 4/3 cũng như câu thất

ngôn tồn tại là để làm nền cho thể loại Đường thi, mà từ trong lòng nó Nguyễn Trãi đã

dân tộc hóa thể thơ ngoại lai này. Nhịp thơ 4/3 là nhịp chẵn / lẻ, nhịp 2/2/3 cũng là

nhịp chẵn / lẻ (không khác nhau), nhưng chúng tôi lưu ý đến loại nhịp này, bởi vì hai

lần dừng nhịp là hai lần khắc sâu, nhấn mạnh vào tâm khảm người đọc ý tưởng của tác

giả.

9 câu theo loại nhịp này (2/2/3), có 4 câu trong 2 bài (99, 132) đều có chung một

kiểu kết hợp từ và ngắt nhịp ngắn để tạo sự lưu ý của người đọc đến nội dung được

diễn đạt trong đó:

- 2 câu ở dòng 5, 6 của bài thơ số 99:

"Tuổi cao / tóc bạc / cái râu bạc.

Nhà ngặt / đèn xanh / con mắt xanh".

Ở hai câu đều có các cụm từ kết cấu theo kiểu: danh từ - tính từ: "tuổi cao", "tóc

bạc", "râu bạc ", "nhà ngặt", "đèn xanh", "mắt xanh", các cụm từ ở hai câu vừa đối ý

vừa đối thanh rất chuẩn. Điều đáng lưu ý là ở cụm 3 âm tiết cuối cả 2 câu đều có 2

lượng từ: "cái", "con". Đây là cặp lượng từ được nhà thơ Xuân Diệu (trong cuốn "Các

nhà thơ cổ điển Việt Nam") vừa phân tích vừa bình rất hay: "cái" khác "chòm", "con"

khác "cặp"... Xuân Diệu còn cho rằng: tiếng "cái" ở vị trí mắt thanh điệu đáng là bằng

mà đổi thành trắc (theo qui luật bằng trắc của thể thất ngôn), tiếng "trắc" này có ý

nghĩa biểu hiện thái độ "hất hàm quắc mắt" của Nguyễn Trãi. Và "con" đáng "trắc" mà

đổi thành "bằng" đầy ý nghĩa - đó là "con mắt xanh" - sâu hoắm suốt đời không ngủ 87

của Nguyễn Trãi vì lo cho dân cho nước... Rõ ràng việc dùng nhịp ngắn là có chủ ý và

khi cần biểu đạt nội dung, Nguyễn Trãi sẵn sàng dùng tiếng trắc thay cho tiếng bằng và

ngược lại.

Ở bài 132, hai câu nhịp 2/2/3 cũng ở vị trí như bài 99:

"Trừ độc / trừ tham / trừ bạo ngược.

Có nhân / có trí / có anh hùng".

Cả hai câu đều điệp động từ đến 3 lần: "trừ" và "có", ở vào các vị trí ngắt nhịp -

nhịp ngắn, tạo cho âm điệu của hai câu này sắc mạnh, rõ ràng, dứt khoát nó vừa có ý

nghĩa biểu hiện, vừa nhấn mạnh khắc sâu trong tâm thức người đọc những nét nhân

cách cao cả của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, suốt đời hy sinh cho lí tưởng "trừ

bạo" của mình.

Kiểu dùng điệp từ này rất mới, rất hay trong QATT. Sau này Nguyễn Du đã phát

huy lợi thế ấy trong "Truyện Kiều".

Ngoài nhịp chẵn / lẻ làm nền, thơ Nguyễn Trãi còn có các loại nhịp khác: lẻ chẵn

(3/4) hay nhịp lạ 2/5, vậy ý nghĩa các loại nhịp này là ở đâu?

Trước hết, phải nhận thức rằng nhịp thơ là sự quay lại (retour), sự quay lại mang

tính chu kỳ, tính xen kẻ luân phiên và cũng là sự chuyển động. Nhưng chính sự quay

lại cũng là việc hủy bỏ nó, lặp lại của chỉ một biến cố, sự đồng nhất mà không có sự

khác biệt, không thể nào tạo nên một hiện tượng luân phiên xen kẽ, cũng như không

thể lập thành được một cấu trúc. Mà thi ca thì đòi hỏi sự cô đúc để rồi trong khoảnh

khắc nó sẽ nổ ra như tiếng sét. Mục đích của thơ không phải nhận thức và phản ánh

hiện thực, mà mục đích là bộc lộ tình cảm và ý chí của con người. Trong tinh cảm, xúc

cảm có "biến cố", thì biến cố có ý tưởng sẽ tạo thành biến cố của ngữ âm và tạo thành

sự thay đổi nhịp điệu.

Nhịp 3/4 là nhịp thơ dân tộc (biểu hiện cảm xúc và mang đặc điểm ngôn ngữ

người Việt), ở QATT có 55 câu thơ theo loại nhịp này (tỉ lệ 4,43 %). Tỉ lệ sử dụng loại

nhịp này không lớn, nhưng qua khảo sát, chúng tôi thấy khi nào Nguyễn Trãi sử dụng

loại nhịp này thì ngôn ngữ ở đó bừng sáng theo ý tưởng nội dung cần diễn đạt. Bởi

không có hình thức nào nằm ngoài nội dung, một nội dung tốt phải có hình thức tốt -

nội dung của hình thức và hình thức của nội dung. 88

Ví dụ 1: Ở bài 15 (đề mục Ngôn chí). Cả bài chỉ có 1 câu 8 là lục, 7 câu là thất, 4

câu đầu (liên 1, 2) nhịp 4/3, đến câu 5, 6 (liên 3) đảo nhịp 3/4 (câu 7 trở lại nhịp 4/3).

Liên 3:

"Bát cơm xoa / nhờ ơn Xã Tắc

Gian lều cỏ / đội đức Đường Ngu".

Để đổi nhịp, trước hết tác giả đổi thanh ở tiếng thứ 4 - thanh trắc (phạm luật:

"nhị, tứ, lục" phân minh). Tiếng thứ 4 ở cả 2 câu đều là động từ ("nhờ", "đội"), loại

động từ biểu hiện lòng biết ơn, kết hợp với ngữ nghĩa 3 âm tiết đầu là cụm danh - tính,

nhịp dừng lại 3/4 là có mục đích. Việc đọc 3 âm tiết đầu ngắn và nhanh để dừng lại 4

âm tiết sau mạnh và kéo dài, nhằm nhấn mạnh lòng biết ơn "Xã Tắc" và ý nghĩa "đội

trên đầu" "đức Đường Ngu" (Đường Nghiêu và Ngu Thuấn). Nhấn mạnh tức là khẳng

định - khẳng định ("nhờ", "đội) vào lúc đang sống "nhàn" ở thời điểm "Vừa sáu mươi

dư tám, chín thu" - thời điểm con người đạt đến độ viên mãn của tài năng và cống hiến

- chưa phải là thời điểm con người nhìn lại cuộc đời lần cuối...

Ví dụ 2: Bài thơ 76 (đề mục Tự thán), vẫn có cấu trúc 7 câu thất đầu, 1 câu lục

cuối và nhịp 3/4 vẫn rơi vào câu 5/6:

"Rượu đối cầm / đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng / lẫn nguyệt ba người".

Hai câu thơ này lại rất chuẩn về âm luật (bài thơ theo luật trắc), nhịp thơ của nó

dựa vào ý nghĩa nội dung. Cả hai câu, kết cấu của cụm 3 âm tiết đầu rất chặt qua "quan

hệ từ": "đối" và "cùng", điểm dừng của nhịp điệu càng tăng thêm quan hệ chặt chẽ này.

Ở câu 5, điểm dừng nhịp ở giữa danh từ "cầm" và động từ "đâm" (2 tiếng này láy

nguyên âm, tạo được âm hưởng trôi chảy) tạo nên sư va chạm giữa điểm dừng nhịp để

nảy sinh sự chuyển vận của ý tưởng "thơ một thủ". Và ở câu 6, điểm dừng nhịp lại là

điểm dừng lại của "ta cùng bóng", để hư từ "lẫn" kéo thêm người bạn thứ ba là

"nguyệt" vào. Nếu "ta cùng bóng" chỉ 3 âm tiết lướt nhanh, thì đến "nguyệt" vừa có hư

từ "lẫn" đứng trước, vừa có sự bổ trợ của đại từ "ba người" (phía sau) tạo nên sự kéo

dài giọng đọc (do 4 âm tiết) - kéo dài vì xao xuyến, nỗi xao xuyến của thi nhân trước

người bạn tri âm, tri kỉ người bạn không một điều nặng nhẹ là "nguyệt" - "trăng" và 89

tạo thế "tam nhân đối ảnh" - tư thế rất cổ điển (

1

) mà cũng rất Việt Nam (qua nhịp thơ

lẻ / chẵn).

Nhịp thơ lạ 2/5 có trong 22 câu, tỉ lệ 1,77% ở trong các bài: 22, 33, 43, 49, 82,

93, 131, 140, 172, 179, 183, và 218... Mỗi bài có loại nhịp này từ 1 đến 2 câu:

- Loại 1 câu:

+ (Miệt bả hài gai khăn gốc)

"Xênh xang / làm mỗ đứa thôn nhân" (Mạn thuật, 33).

+ (Ngoài chưng ngần ấy cầu đâu nữa)

"Cầu một / ngồi coi đời thái bình" (Thuật hứng, 80).

+ (Chữ học ngày xưa quên hết dạng)

"Chẳng quên / có một chữ cương thường" (Thuật hứng, 82).

+ "Thu đến / cây nào chẳng lạ lùng" (Bài 218)...

- Loại 2 câu:

+ "Thế sự / người no ổi tiết bảy

Nhân tình / ai ỏ cúc mồng mười" (Ngôn chí,22).

+ "Khó bền / mới phải người quân tử.

Mạnh gắng / thì nên tiết trượng phu" (Trần tình, 43).

+ "Nguyệt xuyên / há dễ thâu lòng trúc

Nước chảy / âu khôn xiết bóng non" (Thuật hứng, 49)

Với loại nhịp này, ý tưởng trọng tâm thường nằm ở 2 âm tiết đầu, với 2 âm tiết

giọng đọc ngắn hơn, gọn hơn so với 4 (hay 3) âm tiết, nên có ý nghĩa nhấn mạnh và dễ

nhớ hơn. Trọng tâm của bài thơ cũng thường nằm ở loại câu có loại nhịp 2/5 này.

Ở bài 82, câu thơ nhịp 2/5 ở vị trí kết thúc bài thơ ("chẳng quên / có một chữ

cương thường"), hai tiếng "chẳng quên" với nhịp ngắn, chắc, khẳng định tấm lòng của

mình vẫn giữ gìn hai chữ "cương thường" dù "Chữ học ngày xưa quên hết dạng".

Hay ở bài thơ 22, tác giả muốn bày tỏ quan điểm triết lí: "được thời có thế", hoặc

"mất thời không thế" thì nhịp 2/5 ở liên thơ thứ 2 đã phát huy tác dụng triệt để. Đảo

nhịp 4/3 sang nhịp 2/5 để tạo sự lưu ý, hai tiếng đầu: "thế sự, nhân tình" đã bao hàm

(1) Tứ thơ "Nguyệt hạ độc chước" của Lí Bạch 90

toàn bộ quan điểm triết lí của tác giả và nhịp ngắt ở đây đã nhấn mạnh, nhắc nhở mọi

người thấm thía cái đắng cay, tráo chác của "nhân tình" và "thế sự".

"Thế sự / người no ổi tiết bảy.

Nhân tình / ai ỏ cúc mồng mười".

Nếu Nguyễn Trãi có ý thức dân tộc hóa một thể thơ qua việc đưa câu lục ngôn

vào thể thơ luật Đường, thì tác giả cũng có ý thức trong việc sử dụng nhịp thơ của câu

lục ngôn sao cho nhịp điệu đó biểu đạt được hết các giá trị nội dung và thể hiện được ý

đồ nghệ thuật của mình.

Trong tổng số 432 câu lục ngôn, qua khảo sát chúng tôi thấy có 5 dạng nhịp cơ

bản như sau:

- Nhịp 2/2/2: 140 câu /375 câu, tỉ lệ 37,33 %.

- Nhịp 3/3: 216 câu /375 câu, tỉ lệ 57,6%.

- Nhịp 2/4: 19 câu /432 câu, tỉ lệ 4,4%.

- Nhịp 4/2: 6 câu /432 câu, tỉ lệ 1,4%.

- Nhịp 1/5: 5 câu /432 câu, tỉ lệ 1,2%.

Nhịp thơ 2/2/2 làm nhịp nền của câu thơ lục ngôn (trong thể thơ lục bát hay song

thất lục bát).

"Nhịp bình thường của câu thơ là nhịp đôi, câu sáu có ba nhịp, câu tám có bốn

nhịp. Đôi khi câu sáu gồm hai nhịp ba và câu tám gồm hai nhịp ba, một nhịp hai" [105:

51].

Tình trạng nhịp thơ ở câu lục ngôn khác với nhịp thơ ở câu thất ngôn, nếu ở câu

thất lấy nhịp 4/3 (nhịp thơ cổ điển) làm nền (89,93%), thì nhịp nền của hai câu lục

ngôn (nhịp 2/2/2) lại chỉ chiếm tỉ lệ 37,33%, thấp hơn so với tỉ lệ nhịp 3/3: 57,6%. Lí

giải điều này vẫn liên quan đến thi pháp thể thơ: Nguyễn Trãi sử dụng câu thơ lục

ngôn - là câu thơ chỉ có 6 tiếng, tức là kiệm lời, mà kiệm lời nhất của văn học truyền

miệng là sử dụng mã đối xứng, nên sử dụng nhịp 3/3 là hợp lí, là tận dụng kiểu kiến

trúc cân đối, chặt chẽ, thậm chí ở hai vế cân đối có thể tận dụng được phép đối (nội

đối).

Ví dụ: "No nước uống / thiếu cơm ăn" (Thủ vĩ ngâm). 91

Trở lại với 140 câu lục ngôn nhịp 2/2/2, chúng tôi cảm nhận rằng, loại nhịp thơ

này thường diễn tả tâm trạng day dứt, suy nghĩ, buồn bã trước nhân tình thế thái:

Ví dụ:

"Đủng đỉnh / chiều hôm / dắt tay

(Trông thế giới / phút chim bay)

Non cao / non thấp / mây thuộc

Cây cứng / cây mềm / gió hay" (Mạn thuật, 26)

Hai tiếng là một nhịp, hai nhịp là hai chỗ dừng, lắng lại trong tâm tưởng. Cả 6

tiếng có trường độ đọc giống nhau. Ở 4 câu thơ này âm hưởng như kéo dài ra, vì hai

nhịp ngừng như để lộ sự ngập ngừng của một tâm trạng đay đứt, vấn vít trước sự đời

trái ngược: thân "nhàn" - "đủng đỉnh", nhưng đời người chỉ chốc lát - "phút chim bay",

và cũng diễn tả được trạng thái: "mây thuộc", "gió hay", trước "non cao", "non thấp",

"cây cứng", cây mềm"...

Và nhiều khi nhịp 2/2/2 thực sự phát huy hết tác dụng, khi diễn tả tư thế "trầm tư

mặc tưởng" của thi nhân trước không gian "nhàn dật":

"Cửa song / giãi xâm / hơi nắng

Tiếng vượn / vang kêu / cách non

Cây rợp / tán che / am mát.

Hồ thanh / nguyệt hiện / bóng tròn" (Ngôn chí, 21).

Nhịp thơ đều đặn bên cạnh bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, tạo cảm giác buồn

buồn trong lòng người đọc. Đó cũng là nỗi buồn của thi nhân trước cảnh "mất thời,

không thế", phải lấy thiên nhiên làm bạn giải sầu...

Nhiều khi, ngay ngữ âm của âm tiết đã có giá trị ngắt nhịp:

"Đầu kế / lăng căng / những hổ

Thân nhàn / lục cục / mấy già..

Giang sơn / cách đường ngàn dặm.

Sự nghiệp / buồn đêm trống ba " (Tự thán, 94).

Ở cặp câu 3, 4, cặp tính từ láy: "lăng căng", "lục cục" tự nó đã tạo được nhịp ngắt

giữa vế đầu và vế cuối của cả câu. Câu 5, 6 chuyển sang nhịp 2/4 nhấn mạnh nỗi buồn 92

vì xa cách giang sơn và nỗi thao thức suốt cuộc đời của mình: buồn như nghe tiếng

trống canh ba.

Như vậy, câu lục ở dạng nhịp 2/2/2 thường diễn đạt được trạng thái tâm tư có

nhiều vướng vít, suy tư, nhưng khi biểu hiện cảm xúc mãnh liệt trước thế sự, hay suy

nghĩ dứt khoát trước nhân tình thế thái có tính chất triết lí thì tác giả chuyển sang nhịp

thơ 3/3. Ở loại nhịp này vừa có ưu điểm của kiểu nói dân gian, vừa tiết kiệm được một

chỗ dừng để thời gian đọc từng vế dài hơn (3 âm tiết) đọc dài hơn, cũng có nghĩa là

thời gian để suy nghĩ trước một ý tưởng nào đó được lâu hơn. Sự cân đối giúp cho việc

sử dụng phép đối dễ dàng hơn, phép đối của nội bộ câu thơ đưa lại vẽ trọn vẹn của một

tư tưởng gãy gọn, rất thích hợp để khẳng định những quan điểm có tính chất triết lí (đó

là kiểu của tục ngữ: "Giàu bỏ bạn / sang bỏ vợ" hay "Ăn lúc đói / nói lúc say", "Ăn

một miếng / tiếng một đời"...và sau này Nguyễn Du cũng là bậc thầy khi sử dụng nhịp

đôi ở cặp câu lục bát mỗi khi kể lại những sự kiện, biến cố xảy ra với cuộc đời của

Thúy Kiều...).

Loại nhịp 3/3 chiếm tỉ lệ lớn: 57,6%, và câu thơ có loại nhịp này ở rất nhiều vị trí

trong bài thơ thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt.

Ở vị trí dòng 1 (câu 1) câu lục ngôn nhịp 3/3 có dạng khái quát triết lí về một

quan niệm sống, về tư tưởng "nhàn":

Ví dụ:

- "Vàu làm chèo / trúc làm nhà" (Mạn thuật, 39)

- "Giàu chăng kịp / khó còn bằng" (Thuật hứng, 77)

- "Ngủ thì nằm / đói lại ăn" (Tự thán, 110).

Hay ở vị trí câu kết của bài thơ, loại nhịp này lại muốn khẳng định về lí tưởng

sống của mình: "Mài chăng khuyết / nhuộm chăng đen" (Thuật hứng, 69) hoặc ở dạng

câu hỏi tu từ biểu hiện sự trăn trở vì bị sống "nhàn": "Rêu bủi bủi / thấy tiên đâu ?"

(Thuật hứng, 41).

Nhịp 3/3 nhiều nhất thường tập trung ở liên 2, liên 3 của bài thơ - tạo cảm giác

mạnh về nội dung biểu đạt:

Ví dụ:

"Say minh nguyệt / chè ba chén; 93

Thú thanh phong / lều một gian

Ngỏ cửa nho / chờ khách đến

Trồng cây đức / để con ăn" (Mạn thuật, 27)

4 câu, 8 vế đều diễn đạt một quan niệm sống "an bần lạc đạo" của một nhà nho

yêu nước chân chính. Sống giữa thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên, "tích đức" để

lại cho con cháu của mình.

Hay đó là phong cách hiền triết của một nhà nho sống "nhàn":

"Con cờ quẩy / rượu đầy bầu

Đòi nước non / chơi quản dầu

Đạp áng mây / ôm bó củi

Ngồi bên suối / gác cần câu" (Mạn thuật, 41).

Cả 4 câu vừa cân đối, vừa hài hòa, sáng tỏ tư tưởng "xuất - xử" đứng mực của

nhà nho, khi phải "xử" thì lui về sống với không gian rừng núi thanh tĩnh, "an nhiên tự

tại" không vướng bận "bụi đời".

Ngoài hai loại nhịp 2/2/2 và 3/3, ở câu lục ngôn còn có nhịp 2/4 hoặc 4/2, có cả

nhịp 1/5. Loại nhịp này không nhiều, nhưng có mục đích, muốn nhấn mạnh vào một ý

tưởng nào đó có tính chân lý, khó đổi hay khắc sâu vào tâm tưởng người đọc một quan

điểm - thái độ thì chỉ có cách đảo nhịp, lạ hóa câu thơ để người ta lưu ý:

Ví dụ : Vẫn cặp từ "thế sự", "nhân tình" mà tác giả từng sử dụng trong câu thất

nhịp 2/5, thì ở bài 179 cặp từ này được sử đụng trong câu lục ngôn, nhịp 2/4 nhằm đưa

ra một nhận xét tinh tế: "Thế sự / trai yêu thiếp mọn, Nhân tình / gái nhớ chồng xưa".

Nhận xét có tính quy luật, bởi vì con người ta không bằng lòng với hạnh phúc hiện tại,

mà thường mơ màng cái chưa có hoặc tiếc nuối cái đã mất (cái sắp đến là lí tưởng, cái

đã qua thì bao giờ cũng đẹp...)

Nhịp 2/4 (19 câu) lớn hơn nhịp 4/2 (6 câu), bởi vì sự lưu ý ở đầu câu có ý nghĩa

hơn ở cuối câu, tất nhiên ở vị trí nào cũng có giá trị của nó. Hai tiếng ở cuối câu có ý

nghĩa khắc lại, nhấn lại và lưu lại trong suy nghĩ mọi người khi giọng đọc đột ngột

dừng lại (nhịp ngắn), sự đột ngột cũng là một kiểu lưu ý đáng kể:

Ví dụ:

"Ánh cửa trăng mai / thấp thấp 94

Cài song gió trúc / nàm nàm" (Tự thán, 97).

2 tiếng cuối lại là láy tiếng tính từ, nên càng có ý nghĩa tượng hình, gợi cảm.

Nhìn tổng thể, nhịp của 226 bài trong QATT không cố định, nhịp trong một bài

cũng không thống nhất từ đầu đến cuối, có rất nhiều bài đảo nhịp liên tục, từ 2/2/2

sang 3/3, nhịp 2/4, rồi đột ngột chuyển sang nhịp 2/2/3. Hoặc nhịp 4/2, sang nhịp 3/3,

trở về 4/2, cuối cùng trở về trạng thái khoan hòa 4/3:

Ví dụ:

"Đủng đỉnh chiều hôm / dắt tay

Trông thế giới / phút chim bay

Non cao / non thấp / mây thuộc.

Cây cứng / cây mềm / gió hay

Nước mấy trăm thu / còn vậy.

Nguyệt bao nhiêu kiếp / nhẫn này

Ngoài chưng mọi chốn / đều thông hết.

Bụi một lòng người / cực hiểm thay" (Ngôn chí, 26).

Hay mở đầu là nhịp thơ khoan hòa 4/3, đột ngột chuyển sang nhịp 2/2/3 và trở về

với nhịp câu đôi 3/3:

"Ở thế thường hiềm / khác tục ngươi

Đến đây rằng hết / tiếng chê cười

Kể ngày / con nước / toan triều rặc

Bạn chúng / thằng chài / chác cá tươi.

Rượu đối cầm / đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng / lẫn nguyệt ba người

Tai thường phỏng dạng / câu ai đọc

Rất nhân sinh / bảy tám mươi" (Mạn thuật, 76).

Sự đảo nhịp, đổi nhịp trong thơ thương kéo theo sự đổi thay của tiết tấu giọng

điệu. Nếu nhịp điệu thong thả bằng phang kéo theo giọng điệu chậm rãi, lắng sâu, day

dứt; nhịp diệu rắn chắc biểu hiện giọng dứt khoát, rõ ràng, chững chạc và ung dung; và

nhịp điệu dồn dập, gấp khúc lại là biểu hiện của giọng điệu vướng vít, trăn trở, khổ

đau... Nhịp điệu ngắn kết hợp với các phương tiện ngữ âm (dùng nhiều tiếng trắc biểu 95

hiện của giọng điệu nhấn mạnh, khắc sâu, v.v... Sự đảo nhịp gợi liên tưởng về âm

thanh trong âm nhạc, sự đảo phách với kĩ thuật cao gây ấn tượng mạnh về nội đung

bản nhạc, và việc đảo nhịp trong thơ cũng vậy, gây sự chú ý, lưu tâm đến ý tưởng mà

tác giả muốn diễn đạt.

Tuy nhiên, về khách quan mà nhìn nhận, cuộc thí nghiệm này của Nguyễn Trãi

có thành công ở phương diện dân tộc hóa một thể thơ, nhưng ở phương diện nghệ

thuật chắc rằng còn có sự gồ ghề, trúc trắc, lủng củng khi việc "đổi nhịp, đảo nhịp"

được tiến hành liên tục - tức là đưa một sự đổi thay khá lớn vào trong một khuôn khổ

cứng rắn. Và như chúng tôi đã trình bày, câu lục ngôn với 6 âm tiết - âm tiết chẵn là ở

trạng thái cố định, khó thay đổi biến hóa, nên sự lạm dụng câu lục ngôn sẽ kéo theo

nhịp thơ đơn điệu và câu thơ thiếu âm hưởng.

Nhưng, sáng tạo, thay đổi, biến hóa là ý thức, là mục đích dùng hình thức biểu

đạt nội dung trong thi pháp nhịp điệu của QATT.

3.2.2. Vần thơ trong "Quốc âm thi tập".

Vần trong thơ, theo Héghel là do nhu cầu thực sự của tâm hồn muốn nhìn thấy

mình được biểu lộ rõ hơn, có sự vang dội đều đặn.

"Vần thơ - là một hiện tượng phức tạp ở mức độ cao nhất. Nó có chức năng hài

âm đơn giản, bởi vì nó là một sự lặp lại (hay một cái gì đó gần với sự lặp lại) của các

âm. Herry Lanz trong công trình "Các cơ sở lý tính của vần thơ" đã chỉ ra rằng: sự gieo

vần theo các nguyên âm được xác định bởi sự trùng hợp các loại âm của chúng. Mặc

dù mặt âm thanh có tính chất quyết định, hoàn toàn rõ ràng rằng nó hoàn toàn không

khai thác được nội dung được đưa vào khái niệm vần thơ. Về mặt mĩ học thì chức

năng thi học của nó là cơ bản hơn nhiều: vần thơ chỉ sự kết thúc một dòng của bài thơ,

vần thơ như là một thành tố tổ chức duy nhất của đoạn thơ. Nhưng điều cơ bản nhất là

vần thơ có ý nghĩa và nhờ vậy nó tỏ ra là một thành tố đủ quyền hạn và cấu trúc tác

phẩm thi ca như một tổng thể. Vần thơ kết hợp, gắn kết hoặc đối chiếu các từ" (René

Wellek and Austin Warren (1995), Lý luận văn học, Trường Đại học sư phạm TP. Hồ

Chí Minh, TS. Nguyễn Mạnh Cường dịch, tr. 193).

"Tôi quan niệm rằng thơ phải có vần, không vần không phải là thơ" (Tú Mỡ).

Tuy nhiên, dù ít thôi, vẫn có thơ không vần; bởi đã có nhịp thơ góp phần gánh đỡ

tiết tấu "nhạc" câu thơ. 96

Ví dụ:

Khi mẹ vắng nhà / em luộc khoai.

Khi mẹ vắng nhà / em cùng chị giã gạo

Khi mẹ vắng nhà / em thổi cơm.

Khi mẹ vắng nhà / em nhổ cỏ vườn

Khi mẹ vắng nhà / em quét sân và cổng..."

(Khi mẹ vắng nhà - Trần Đăng Khoa)

(Ở bài thơ này còn có sự hỗ trợ của phép lặp đầu điệp ngữ: "Khi mẹ vang nhà?..)

Nhịp thơ (như đã bàn ở phần trước) là nét đặc trưng bản chất của thơ. Thế nhưng,

văn xuôi (trừ văn biền ngẫu), không vần, vẫn có thể có nhịp.

Ví dụ: - Đói ăn / khát uống. Ngày đi / đêm nghỉ. Sáng nắng / chiều mưa...

- "Không! / Chúng ta thà hy sinh tất cả, / chứ nhất định không chịu mất nước, /

nhất định không chịu làm nô lệ..." (Hồ Chí Minh).

Vần là yếu tố để phân biệt thơ với văn xuôi. Câu hát căn bản cũng dựa vào vần.

Các loại nói lối, vè, dân ca đều dựa vào vần chân, vần lưng, cộng với phần nhạc để tạo

nên câu hát. Trong thơ thất ngôn luật người cầm bút còn có thể tự do trong việc sử

dụng thanh điệu ở các tiếng thứ nhất, ba, năm của câu thơ (nhất, tam, ngũ bất luận),

nhưng vần thơ thì trăm bài như một phải hạ vào cuối các câu: 1, 2, 4, 6, 8.

Thơ không chỉ có vần, song vần cứ như là một thứ "khóa mật mã" để tổ chức bài

thơ. Xin mượn một khía cạnh trong một câu thơ của Bác Hồ để hiểu thêm vai trò trọng

yếu của vần thơ: "Bỗng nghe vần thắng vút lên cao?"

Vần là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định

giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay ở cuối dòng thơ. Vần là yếu tố liên kết các

dòng thơ, là sợi dây ràng buộc các dòng thơ lại với nhau và nó như điểm nhấn giúp

cho việc đọc dễ dàng hơn, xuôi thoát hơn. Vần thơ hay cũng là một trong những yếu tố

để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Jacobson còn cho rằng: "Dù vần thơ, tự bản chất,

dựa trên sự láy lại đều đặn những âm vị hay những nhóm âm vị tương đương, thì cũng

sẽ phạm phải một sự đơn giản hóa quá mức khi giải quyết vần thơ chỉ từ phương diện

âm thanh. Vần thơ bao hàm một cách tất yếu một quan hệ ngữ nghĩa các đơn vị mà 97

vần thơ gắn lại với nhau (những "người bạn đường của vần thơ" - rhyme - fellows -

theo thuật ngữ của Hopskin) [62: 24]

Ví dụ: Vần "an" trong "Em ơi, Ba Lan" của Tố Hữu, vần "eo" trong "Thu điếu"

của Nguyễn Khuyến, vần "om" trong "Hang Cắc Cớ" của Hồ Xuân Hương... Sở dĩ

chúng tôi gọi là vần "an", "eo", "om" mà không nhắc đến phụ âm đầu của âm tiết, bởi

vì đơn vị hiệp vần trong tiếng Việt là một từ đơn âm tiết, mà âm tiết tiếng Việt bao

gồm ba bộ phận độc lập: thanh điệu, phụ âm đầu và phần còn lại (âm đệm, nguyên âm,

âm cuối). Phần còn lại mang âm sắc chủ yếu của âm tiết và nó là bộ phận đoạn tính

duy nhất kết hợp với thanh điệu tạo nên vần thơ. Do tiếng Việt có 16 nguyên âm, nên

có một tiềm năng to lớn trong việc tạo ra các khả năng hiệp vần của thơ ca. Trong ý

thức của người Việt Nam, vần thơ được tính ở bộ phận thứ ba, còn phụ âm đầu mặc

nhiên được tách ra, không tính đến - không tính đến bởi vì nó là yếu tố tạo nên sự khác

biệt, bởi hai đơn vị hiệp vần với nhau trùng lặp hoặc đồng nhất hoàn toàn thì hiệu quả

hòa âm của chúng bị giảm hẳn. Sự trùng hợp hoàn toàn làm giảm khả năng tạo âm

hưởng, khả năng cộng hưởng và làm cho nhạc thơ chững lại, thiếu độ vang. Vả lại, bản

thân âm tiết hiệp vần mà lặp lại toàn bộ thì sẽ hạn chế việc biểu đạt nội dung mới của

câu thơ - trừ trường hợp lặp lại vần có chủ ý nhằm nhấn mạnh, khắc sâu một ý tưởng

nào đó.

Trong trường hợp tạo vần khó khăn, buộc phải lặp lại âm tiết toàn bộ thì bộ phận

thanh điệu lại là yếu tố quan trọng để tạo nên sự khác biệt, ngoài việc đối lập thanh

bằng - trắc, còn có sự khác biệt giữa âm vực: Âm vực cao (không dấu, ngã, sắc), âm

vực thấp (huyền, hỏi, nặng).

Thi luật truyền thống Trung Quốc chỉ có cước vận mà không có yêu vận, thi luật

Việt Nam vừa có cước vận vừa có yêu vận. Thi luật Việt Nam hiện đại gieo vần linh

hoạt: vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách, vần ôm, vần chéo, vần hỗn hợp... sự

đa dạng này diễn tả được sâu sắc cảm xúc của nhà thơ.

Vần và nhịp là hai yếu tố song hành trong thơ. Nhịp trong thơ duy trì nhịp thời

gian, nhịp của cảm xúc, nhịp của vũ trụ tuần hoàn... Vị trí cố định của điểm ngắt nhịp

và vần gieo ở cuối câu là những thành tố gắn bó với một hình thức cố định. 98

"Vần đưa ta quay trở lại dòng trước, buộc ta nhớ lại nó. Vần bắt tất cả các dòng

thể hiện cùng một tư tưởng phải đứng cạnh nhau... Vần liên kết các dòng, vì vậy chất

liệu của nó cần phải vững vàng hơn chất liệu phần còn lại của các dòng" (Maiacôpxki).

Vần còn có khả năng tạo nên giọng điệu của bài thơ. Bài thơ sử dụng nhiều vần

trắc, giọng đọc trúc trắc, tắc nghẹn. Bài thơ sử dụng nhiều vần bằng, kết hợp với

nguyên âm mở và phụ âm cuối vang (m, n, ng, nh) tạo cho giọng đọc nhẹ nhàng, thanh

thoát, man mác, lắng sâu.

Vần có ý nghĩa về phương diện ngữ âm như là một sự trùng lặp âm thanh. Lặp

âm thanh là một trong những yếu tố tạo nên sự láy lại trong tâm tưởng, nhiều khi vần

còn tạo âm hưởng cho bài thơ: Vần có ý nghĩa vận luật tạo nên giới hạn của một dãy

âm trong một câu thơ.

Cho nên nói về vần thơ, nhà thơ Xuân Diệu có cách diễn đạt rất hình ảnh: "Vần,

nhịp là gì nếu không phải là những cái ngăn cản vờ, để cho tâm hồn thơ trú ngụ, con

ngựa bất kham khi người cưỡi ngựa yếu bóng vía, khi con ngựa lồng lộn đã ch ịu

cương rồi, nó đi nhanh hơn ngựa thường. "(Xuân Diệu, Tiếng thơ, Văn nghệ số

13/1949). 226 bài thơ trong QATT theo thể thơ luật Đường có pha lục ngôn chủ yếu

theo hai loại: thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt, nên vần gieo ở cuối các câu: 1, 2,

4, 6, 8 (ở thể thất ngôn bát cú) và 1, 2, 4 hoặc 1, 2, hoặc 2, 4 ở thể thất ngôn tuyệt cú.

Vần thơ ở cuối các câu này như cái khóa ngữ âm giữ chặt bài thơ lại với nhau, bổ trợ

cho phần niêm đã bị đứt (do việc xen câu lục ngôn ở nhiều vị trí khác nhau vào bài

thơ).

Theo thống kê của Trần Thị Hương về vần thơ QATT cho thấy: "Sự thống nhất

hoàn toàn của các âm vị nguyên âm làm âm chính trong việc gieo vần của Nguyễn Trãi

là đạt đến 73,1%, cùng âm sắc 23,9%, cùng âm lượng 13%... Nguyễn Trãi sử dụng

nguyên âm trầm vừa (hay trung hòa) có tỷ lệ đồng nhất trong vần thơ cao nhất sau đó

đến các nguyên âm bổng và cuối cùng là các nguyên âm cực trầm. Có 169 nguyên âm

trung hòa được sử dụng, 55 nguyên âm hàng trước và 30 nguyên âm hàng sau (thuộc

dạng trầm, tối). Các phụ âm cuối: phụ âm vang được sử dụng nhiều hơn các phụ âm vô 99

thanh (tắc). Đồng nhất hoàn toàn: 98,9%. Đồng nhất bộ phận: Đặc trưng vang: 0,75%.

Vô thanh: 0,32%". (

1

)

Khảo sát chúng tôi thấy có 9 bài có hiện tượng lặp vần và ép vần, tỉ lệ 9/254 là

3,58%.

- Bài số 2: Vần ở câu 4 không hiệp với cả bài (ôi - ai) - (Đôi, rồi, mai, thôi). (Bài

này không xen câu lục).

- Bài số 84: Vần ở câu 8 không hiệp với cả bài (ai - oe), (Dài, ai, dài, tai, hòe).

Lặp gần:

+ Bài 50: Câu 1, 2 (thông).

+ Bài 10: Câu 6, 8 (đời).

+ Bài 38: Câu 4, 6 (chăn).

+ Bài 84: Câu 1, 4 (dài).

Lặp xa (đầu, cuối):

+ Bài 112: Câu 1,8 (hay).

+ Bài 127: Câu 1,8 (dung).

+ Bài 165: Câu 1,8 (vân).

Chúng tôi thấy ở phương diện vần thơ, vần trong QATT được thể hiện rất nghiêm

nhặt, chặt chẽ, tránh được sự nhàm chán do trùng lặp vần, tránh được sự gượng ép do

lạc vận... và phần lớn lại sử dụng nguyên âm trung hòa với nguyên âm hàng trước

cùng với việc kết hợp phụ âm cuối vang (m, n, ng, ch), tạo cho âm hưởng của tập thơ

vang vọng, rộn ràng không có cảm giác mắc nghẹn, u tối, trầm buồn; điều đó trái

ngược với hoàn cảnh và tâm sự của tác giả, và đó cũng là điều kì diệu của QATT.

Hoàn cảnh Ức Trai có chuyện phiền muộn, tâm sự Ức Trai có điều lo buồn, song

vần thơ Ức Trai lại vang vọng, điều ấy biểu thị ở người cầm bút một bản lĩnh cứng cỏi,

một trí tuệ tao nhã, một tâm hồn trong sáng, biết vượt lên số phận, vui với trời đất cỏ

hoa, giữ cho lòng mình thanh tĩnh, giữ cho chí mình vững bền, nó góp phần lí giải vì

sao trải qua năm trăm năm, QATT vẫn còn sức cuốn hút, vẫn là ngọn nguồn tắm mát

tâm hồn các thế hệ kế tiếp, vẫn là "ánh sao khuê" cho đời.

(1) Trần Thị Hương, K25: "Tìm hiểu vai trò của phần vần trong cách hiệp vần thơ qua thơ

Nguyễn Trãi". Trong cuốn "Vần thơ Việt Nam dư ới ánh sáng của ngôn ngữ học" – Mai Ngọc

Chừ, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1991. 100

3.3. THI PHÁP NGÔN NGỮ TRONG QATT:

"Ngôn ngữ là một hệ thống các kí hiệu" [153: 97]. "Từ ngữ không chỉ kết hợp

vào nhau vì ý tưởng chúng truyền đạt như trong lời nói bình thường mà vì sự giống

nhau đối lập hay song song... do âm thanh, do ý nghĩa vần điệu hay ý nghĩa bao trùm

của chúng tạo ra" [151: 99].

"Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học" (M.Gooki). Với thi pháp học, ngôn

ngữ trở thành đối tượng chính của nghiên cứu, phê bình văn học. Nhà văn, nhà thơ

nhiều khi phải đãi trong hàng tấn "quặng" chữ mới tìm ra một chữ. "Ngữ bất kinh

nhân, tử bất hưu" (Đỗ Phủ) - (Lời thơ mà không làm cho người ta kinh ngạc, chết

không yên). Thơ là sự ngập ngừng kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa.

"Thơ phải được ý ở ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của

người làm thơ, cho nên ý thừa hơn l ời thì tuy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy

công phu mà vẫn vụng. Còn như ý hết mà lời cũng hết thì không đáng là người làm thơ

vậy" (Ngô Lôi Pháp).

Sử dụng tiếng mẹ đẻ để sáng tác trong cả 226 bài thơ, cách đây những 500 năm

là một việc làm có ý thức, thể hiện bản lĩnh, thể hiện ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi

đối với nền văn chương nước nhà. Bởi vì, cho đến thế kỷ XX, một số bộ phận con nhà

"cửa Khổng sân Trình" vẫn coi đó là thứ chữ "nôm na mách qué". Dùng tiếng Việt để

sáng tác, ngôn ngữ trong QATT đạt đến mức dân dã nhất, tinh túy nhất và cũng dân tộc

nhất trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vựng, cú pháp.

3.3.1. Từ vựng

Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Theo "Dẫn luận ngôn ngữ học" thì: "Từ là đơn

vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ngôn ngữ và hình thức" [40]. Đối với ngôn ngữ

đơn âm tiết như tiếng Việt thì các đơn vị thực từ và hư từ là yếu tố làm nên kết cấu

câu.

Thực từ (danh từ, tính từ, động từ, đại từ) là đơn vị cơ bản, tồn tại độc lập trong

kết cấu ngữ pháp. Hư từ (phó từ, kết từ - liên từ, giới từ, hệ từ, trợ từ, thán từ...) tuy

không có khả năng tồn tại độc lập, luôn phải đi kèm với thực từ, nhưng có lúc lại phát

huy giá trị tu từ trong câu thơ. Thực từ và hư từ trong một tác phẩm là một hệ thống,

cùng nhau làm ra giá trị văn chương của tác phẩm. Nhiều lúc, hư từ giúp cho vần, 101

nhịp, giọng điệu bài thơ và có khả năng làm phong phú trong việc phân biệt những

tình cảm và thái độ tế nhị của nhà thơ.

Ví dụ:

- Người đọc tự nhận biết thêm một vấn đề tinh tế trong thời cuộc chính trị lúc đó

(vua quan bạc nhược / nhân dân anh hùng) qua một loạt hư từ (vốn chẳng phải, chẳng

qua là, nào đợi, chi nài...) mà Đồ Chiểu đã đùng để khắc họa hình tượng người nông

dân - nghĩa sĩ trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc".

- Trong bài "Khóc Dương Khuê" có câu "Biết thôi thôi thế thì thôi mới là". Câu

này trong nguyên tác bằng chữ Hán của tác giả "Giải tổ qui điền viên" (Cởi dây ấn về

với ruộng vườn). Câu thơ dịch chỉ giữ đại ý, lời lẽ đã khác; tác giả đưa vào 5 hư từ

(thôi thế, thì... mới là), 5/8, để kín đáo gửi một lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng dứt khoát

những ai ra làm việc lại với Tây.

Ngôn ngữ trong từng phong cách là một hệ thống khép kín, nên có lúc chỉ có thể

bớt không thể thêm (như ở thơ Đường), có thể giúp chúng ta nhận biết các phong cách

(trữ tình, tự sự, triết lí, châm biếm...).

3.3.1.1. Hư từ:

254 bài thơ trong QATT có hai loại câu: câu thất ngôn (7 chữ) và câu lục ngôn (6

chữ), câu lục ngôn vừa là thể nghiệm về thể loại của Nguyễn Trãi, vừa biểu hiện xu

hướng "kiệm lời" trong thi ca, thơ xưa chuộng dùng chữ "đúc", câu lục ngôn có nhịp

3/3 thường ít sử dụng hư từ, bởi kết cấu của mỗi cụm từ 3 âm tiết thường mang ý

nghĩa biểu đạt một ý tưởng. Có hư từ câu thơ chặt chẽ, ít hư từ câu thơ càng khó đoán,

mông lung. Thơ Đường ít dùng hư từ nên khó đoán. Ít hư từ thì cấu trúc ngôn từ có vẽ

lỏng lẻo, nhưng cũng có cái lợi là mở rộng chân trời tư duy, suy nghĩ. Cấu trúc bên

trong, người viết không biểu đạt, mà người đọc phải tự bắc cầu lấy, ai muốn nghĩ thế

nào thì nghĩ.

Ngôn ngữ, ở phương diện giao tiếp hàng ngày rất cần sự tường minh, nhưng ở

phương diện nghệ thuật thì nhiều khi "tập mờ" lại rất cần thiết và có giá trị.

Vì vậy thực chất thơ rất cần đến hư từ, bởi hư từ đưa lại cho nó chiều sâu ngữ

nghĩa.

Ví dụ: 102

"Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ

Trời ban tối ước về đâu?"

(Ngôn chí, 14)

Hư từ "chẳng" đưa câu thơ vào thể phủ định: chẳng muốn, chẳng thích, "chẳng

khứng" và là tiền đề cho trạng thái mông lung, vô định ở câu thơ thứ hai:

"Trời ban tối ước về đâu ?".

Hoặc: "Con đòi trốn, dường ai quyến" (Thủ vĩ ngâm)

"Dường" - "đường như", không khẳng định, hàm nghĩa nghi vấn - nghi vấn vì

"Con đòi con ở trốn đi do có ai quyến rũ? Hay vì trốn cái đói do cảnh "no nước uống,

thiếu cơm ăn"?

Dùng câu lục ngôn là kiệm lời, nhưng không có nghĩa kiệm lời mà tác giả bỏ qua

giá trị ngôn từ, chữ nghĩa. Nhằm biểu đạt nội dung tốt nhất, thì sử dụng thực từ hay hư

từ là đều có mục đích, có lúc Nguyễn Trãi không ngần ngại lặp luôn hư từ ở trong một

câu để thông qua cái hư mà nói rõ một tình thế, một thực tế của bản thân mình.

Ví dụ: "Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải" (Thủ vĩ ngâm).

Hư từ "chẳng" lặp lại hai lần là để khẳng định, khẳng định tình thế dở dang, tình

thế lưỡng phân của một con người có chí lớn mà phải ngồi chơi, đếm lịch trong hoàn

cảnh "Góc thành Nam, lều một căn"

Hoặc ở bài 241 - "Hoa mộc", có câu thơ:

"Chẳng yêu thì chớ nữa chi cười".

Trong một câu thơ mà có 3 hư từ: "chẳng", "chớ", "chi". Hư từ "chẳng" ở thế phủ

định: Không yêu thì thôi. Hư từ "chớ" lại dừng ở mệnh lệnh "đừng" (không nên) cười

rằng này nọ..., hai tình cảm trái ngược nhau trong một câu thơ cũng là biểu hiện tình

thế của thi nhân - mượn chuyện hoa để nói chuyện người...

Qua khảo sát, chúng tôi thấy, số hư từ được Nguyễn Trãi sử dụng rất nhiều trong

thơ, phần lớn là những hư từ: Dường, chăng, chẳng, miễn (lẫn), viễn (vẫn), dầu (dù),

chớ, bởi, mới, hãy, tua (nên), nớ, lọ (huống chi), bui (duy)... Một số hư từ cho đến nay

đã được liếng Việt hiện đại thay thế: Mựa - chớ, mliễn - lẫn, vuỗn - vẫn, tua - nên, dầu

- dù, lọ - huống chi, bui - tuy... số hư từ có tần số lặp lại cao nhất là: Mựa (chớ): 27 lần, 103

mliễn (lẫn): 12 lần, chẳng: 16 lần... Loại hư từ lặp lại hai lần trong câu có đến 17 câu

trong 17 bài khác nhau.

Ví dụ:

- "Danh chăng chác, lộc chăng cầu" (Tự thuật, 121).

- "Mựa tham, mựa dại nết anh hùng" (Tức sự, 127).

- "Chẳng cao, chẳng thấp, miễn qua ngày" (Bảo kính cảnh giới, 146)

- "Chớ người trọc trọc, chớ ta thanh" (Bảo kính cảnh giới, 156).

- "Chẳng khôn, chẳng đại, luống ương ương" (Bảo kính cảnh giới, 157).

- "Lọ chi thành thị lọ lâm tuyền" (Bảo kính cảnh giới, 163)...

Trong số các hư từ lặp lại, thì loại hư từ biểu thị một điều gì đó không ổn, không

xong được lặp lại nhiều nhất. Đó là: "chẳng đã", "chẳng phải", "chẳng khứng"... đều có

ý nghĩa biểu đạt một tình thế "lưỡng phân", một trạng thái tinh thần "bất an", một tình

thế "khó xử" - khó xử vì "tấc lòng son" vẫn "Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông",

nhưng buộc phải "Tham nhàn lánh đến giang san".

Dùng hư từ, lặp hư từ là đã nới lỏng sự trói buộc về mặt cú pháp. Bên cạnh đó,

nhịp điệu có thể giữ vai trò phân ranh giới và liên hệ giữa các từ, nên kết hợp giữa hư

từ và nhịp điệu sẽ đưa lại cho ngôn ngữ thơ ca kích thước về độ sâu - độ sâu của ngữ

nghĩa và cũng là độ sâu của trạng thái "mờ" trong nhận thức của con người, phản ánh

cái "mờ" trong hiện thực khách quan. Với cuộc đời và sự nghiệp của Ức Trai, thì 47

tiếng "nhàn" trong 45 bài ở tập thơ chỉ là tảng băng nổi, còn bên dưới là dòng chảy nói

về "tấc lòng son"... Trăn trở giữa "xuất và xử" thì phải mượn đến nhịp điệu ngập

ngừng, nhịp điệu bất thường và hư từ ở trạng thái "mờ", trạng thái "lặp", trạng thái

"phủ định của phủ định", trạng thái "trái nghĩa" trong một câu, trong một bài... Trong

nhiều trường hợp, hư từ thực sự là cứu cánh trong việc thể hiện những tình cảm và thái

độ tế nhị của nhà thơ.

3.3.1.2. Từ láy:

"Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy

tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối hài hòa với

nhau về âm và nghĩa, có giá trị tượng trưng hóa" [45: 36]. 104

Qua khảo sát, chúng tôi thấy, ngôn ngữ trong QATT chỉ có tiếng láy đôi chưa có

liếng láy ba (sát sàn sạt...) láy tư (khấp kha khấp khểnh...) như tiếng Việt hiện đại.

Trong số 263 lừ láy sử dụng trong "QATT" có 171 tiếng láy bộ phận (90 tiếng láy phụ

âm đầu, 81 tiếng láy vần) và 92 tiếng láy hoàn toàn. Ngoài ra tác giả còn sử dụng

nhiều từ ghép phân nghĩa, làm cho nghĩa của từ sử dụng được rõ ràng hơn (Ví dụ: Cỏ

xanh (bài 12), cỏ tươi, sông biếc (bài 22), non xanh (bài 60...).

Trong 171 tiếng láy bộ phận, đổi vần có sự hòa phối ngữ âm nên nó không chỉ có

giá trị hình thái mà còn có giá trị tạo nghĩa, tức giá trị biểu trưng hóa và mang lại giá

trị gợi tả, diễn cảm của từ, càng tăng giá trị biểu đạt của bài thơ.

Ví dụ :

"Đã mấy thu nay để lệ nhà

Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha

Một thân lẩn quất đường khoa mục

Hai chữ mơ màng việc quốc gia

Tài lẹt lạt nhiều nên kém bạn

Người mòn mỏi hết phúc còn ta.

Quân thân chưa báo lòng canh cánh

Tình phụ cơm trời áo cha." (Ngôn chí, 8).

Bài thơ có 8 câu, mà có đến 6 từ láy (trong đó 5 từ láy bộ phận đổi vần, và một từ

láy hoàn toàn), nằm ở 6 câu thơ từ câu 2 đến câu 7: "đeo đẳng", "lẩn quất", "mơ

màng", "lẹt lại", "mòn mỏi", "canh cánh". Bài thơ có câu 8 là câu lục ngôn. Nhịp bình

thường ở các câu thất ngôn là: 4/3 và nhịp 2/2/2 ở câu lục Bài thơ gây sự chú ý với

người đọc ở phương diện âm thanh, do số từ láy được sử dụng đậm đặc (12 từ / 55 từ).

Trong 6 từ láy sử dụng, có từ láy "lẹt lạt" thuộc dạng từ cổ, 5 từ láy còn lại rất quen

thuộc với tiếng Việt hiện đại. Vậy, thử phân tích các từ láy để hiểu thêm bài thơ chút

nào chăng ?

Từ "lẩn quất", Bùi Văn Nguyên chú thích: lẩn tránh đâu đó, Nguyễn Trãi chuẩn

bị đi thi, thì nhà Hồ lên, nên lúc đầu do dự không muốn thi... bài thơ này nói lên tâm

sự trước khoa Canh Thìn (1400) [37: 97]. 105

Trở lại với hai câu thơ đầu ta thấy: "Đã mấy thu nay để lệ nhà". Đào Duy Anh

chú thích 3 chữ "để lệ nhà": "Để lệ nhà mình ở đấy, tức là bỏ lệ nhà, tức thói nhà... lệ

nhà của Nguyễn Trãi từ ông ngoại là Trần Nguyên Đán vui thú ở nơi núi khe mây khói

chứ không phải là đeo đuổi công danh ở chốn phồn hoa" [132: 708].

Câu thứ 2: "Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha". "Đeo đẳng": Theo đuổi mãi

không dứt ra được. Từ láy này rất phù hợp với tiếng "duyên" ở đầu câu vì có "duyên"

mà "đeo dẳng". Nguyễn Trãi lúc gặp thời thì có "duyên may", không gặp thời thì chịu

"phận bạc". "Duyên" để cho Nguyễn Trãi "đeo đẳng" là "duyên" về quốc gia, về dân

tộc và về nhân dân..., nên chữ "lẩn quất" trong câu thơ thứ 3 có thể hiểu là "những ý

nghĩ nặng nề lẩn quất trong đầu" về "đường khoa mục". Bởi ở phần tiểu sử Nguyễn

Trãi chúng ta thấy: "Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400) Hồ Quí Ly lật đổ nhà

Trần, dựng ra nước Đại Ngu. Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và ra

nhận chức Đại lý tự khanh thị lang tòa trung thư, Hàn lâm viện học sĩ kiêm giữ chức

Tư nghiệp Quốc tử giám. Cũng năm Canh Thìn nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên, Nguyễn

Trãi ra thi, ông đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Sau khi thi đỗ, ông được Hồ Quí Ly trao cho

chức Ngự sử đài chánh chưởng..." [132: 12, 13].

Ông ngoại Trần Nguyên Đán thấy nhà Trần suy vong, đã lui về Côn Sơn, Nguyễn

Phi Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, Nguyễn Trãi là người "hăm hở" tham gia đợt thi

đầu tiên, chứ không thể là "do dự không muốn thi... ".

Từ láy "mơ màng" ở câu thơ thứ tư tiếp tục làm rõ nghĩa câu thơ thứ ba. Mơ

màng là trạng thái say mê, theo đuổi những hình ảnh xa xôi, thoát ly thực tại hoặc là

nghĩ tới, tưởng tới điều mình mong muốn, đưa nó vào văn cảnh câu thơ càng thấy rõ:

"Hai chữ mơ màng việc quốc gia". Nếu Nguyễn Trãi là người đứng giữa dòng chảy

lịch sử, thì "việc quốc gia" là việc hiện thực, cớ gì phải "mơ màng". Nếu Nguyễn Trãi

là người chưa vào dòng chảy chính của thời đại thì rõ ràng nghĩ đến quốc gia, dân tộc

chỉ còn trong trạng thái say mê, theo đuổi những điều mình mong muốn.

Câu thơ thứ 5 tiếp tục làm sáng tỏ điều đó, "Tài lẹt lạt nhiều nên kém bạn" - "lẹt

lạt" - kém cỏi, lẹt lạt, nói khiêm, nói nhún là kiểu bày tỏ kín đáo trạng thái ẩn ức, buồn

bực. 106

"Người mòn mỏi hết phúc còn ta" - Câu thơ này phải đọc đúng nhịp 4/3 mới hiểu

hết nó: "Người mòn mỏi hết / phúc còn ta". "Mòn mỏi": hao sút dần theo thời gian

[132: 16].

Người cùng thời (với Nguyễn Trãi) nay không còn mấy, thì "phúc còn ta" là may

mắn, là "còn có dịp không phụ cơm trời áo cha".

"Quân thân" - từ ghép: vua - cha - mẹ - "chưa báo" - chưa đền đáp được thì lòng

"canh cánh", lừ láy tiếng "canh cánh" dã diễn tả được nỗi lo nghĩ lúc nào cũng bên

lòng, không để cho yên, "lo canh cánh", nỗi lo canh cánh của Nguyễn Trãi được thể

hiện rất nhiều trong QATT:

- "Nợ quân thân chưa báo được.

Hài hoa còn bợn dặm thanh vân" (Ngôn chí, 12)

- "Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông" (Thuật hứng, 50).

- "Còn có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung" (Thuật hứng, 68).

Như vậy, qua phân tích một số từ láy trong bài thơ số 8, ta thấy được trạng thái

say mê của Nguyễn Trãi về việc quốc gia, mà chưa thực hiện được, nên buồn bực,

canh cánh vì chưa có danh vị, vì còn "Tình phụ cơm trời áo cha".

Đối với những bài sử dụng từ láy hoàn toàn (láy tiếng) có giá trị tăng nghĩa biểu

đạt, tạo cảm giác về âm thanh, gây ấn tượng về tính chất của sự vật.

Ví dụ: Dặng dặng, pho pho, nàm nàm, khoan khoan...

Thành công đáng ghi nhận nhất của Nguyễn Trãi là phối âm những cặp từ láy

sóng đôi trong một bài:

"Hương cách gác vân thu lạnh lạnh.

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh" (Bảo kính cảnh giới)

Cặp láy tiếng tính từ: "lạnh lạnh", "chênh chênh" ở cuối câu tạo độ vang cho vần

thơ và có giá trị tạo hình rất đẹp. "Nguyệt chênh chênh" là đã về khuya, không gian

vắng, trong khung cảnh "thuyền kề bãi tuyết" rất lãng mạn và phù hợp với "Hương

cách gác vân thu lạnh lạnh" - "lạnh lạnh" - cái se lạnh của sương, của đêm thu, của

không gian "trăng chênh chênh" (Trăng thu chênh chếch dòm song...) 107

- "Cửa thầy giá nhơn nhơn lạnh

Lòng bạn trăng vặc vặc cao" (Bảo kính cảnh giới, 167, câu 5, 6).

Vẫn cặp láy tính từ: "nhơn nhơn", "vặc vặc", cặp láy tiếng này đối nhau về nghĩa:

"nhơn nhơn": trơ lì; "vặc vặc": trong trẻo, cao quí ("vầng trăng vằng vặc giữa trời" -

Truyện Kiều)... Thế thái nhân tình dù có bạc bẽo, thì lòng bạn vẫn như ánh trăng "vằng

vặc" sáng.

Cặp từ láy tiếng đi sóng đôi còn dùng để diễn tả một ý tưởng có tính chân lí:

- "Vệ Nam mãi mãi ra tay thước

Điện Bắc đà đà yên phận tiên" (Bảo kính cảnh giới, 183).

Cặp láy trạng từ "mãi mãi", "đà đà " đã khẳng định châm lí vĩnh cửu mà Nguyễn

Trãi từng tự hào tuyên bố trong Bình Ngô đại cáo:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác... "

Ở bài 199 (trong chùm thơ "Tích cảnh"), Nguyễn Trãi rất tài tình khi sử dụng cặp

từ láy tiếng bắt đầu bằng phụ âm "kh":

"Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng

Thu đến đêm qua cảm vả mừng

Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt

Khoan khoan những lệ ác tan vừng".

"Khuâng khuâng" - "bâng khuâng" (tính.từ ) biểu hiện cảm xúc luyến tiếc nhớ

thương xen lẫn nhau, gây ra trạng thái hơi ngẩn ngơ - "khuâng khuâng" vì "Thu đến

đêm qua cảm vả mừng" và "khoan khoan" được sử dụng với ý nghĩa của một động từ:

ngăn lại, chặn lại - có nghĩa: "hãy thong thả từ từ, vì ta những lo sợ khi trăng mọc thì

cũng là lúc bóng mặt trời đã tan, ngày đã tàn. Ý thơ xúc động trước cảnh thời gian đắp

đổi qua mau. Nguyễn Du cũng có một câu tương tự: "Trải bao thỏ lặn ác tà" [134:

1084]

Vẫn cấu trúc láy tiếng ở câu đầu, câu cuối trong bài thơ tứ tuyệt, bài 244, tác giả

lại sử dụng động từ láy "nẩy nẩy ", và tính từ láy"đùn đùn": 108

"Mống lành nẩy nẩy bãi hòe trồng.

Một phút xuân qua một phút trông

Có thuở ngày hè giương tán lục

Đùn đùn bóng rợp cửa tam công" (Hòe)

Điệp từ "một phút", lặp lại hai lần để nhấn mạnh thời gian trôi qua và mong mỏi

từng phút được thấy vào mùa hè cây hòe đã lớn và tán rộng xanh um. Và từ láy "nẩy

nẩy" đã diễn tả sức mạnh bung lên, bật lên từ những mầm cây tràn trề nhựa sống. Sức

sống mãnh liệt của cây cối đã từng được Nguyễn Trãi miêu tả rất hay ở trong bài "Ba

tiêu": "Tự bén hơi xuân tốt lại thêm".

Giá trị ở sự tươi tốt của cây hòe là ở bóng, ở tán râm mát của nó:

"Có thuở ngày hè giương tán lục

Đùn đùn rựp bóng cửa tam công".

"Đùn đùn" - cành lá xum xuê, rậm rạp, đủ để "rợp bóng cửa tam công".

Miêu tả "Trận bướm" (bài 250), tác giả còn rất tài hoa khi sử dụng những cặp từ

láy tượng thanh, tượng hình giàu sức gợi tả: Lay thay, tớp tớp, khoan khoan, déo dắt...

Có khi xuất hiện cả cặp từ láy trong một câu thơ, tạo nên giai điệu thăng giáng hài hòa:

Ví dụ:

"Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành

Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình" (Thơ tiếc cảnh, 202).

Như vậy, việc sử dụng nhiều từ láy trong thơ vừa có giá trị tạo hình, vừa có giá

trị tạo nghĩa, vừa làm tăng ý nghĩa biểu đạt qua ấn tượng thanh âm.

3.3.1.3. Việt hóa một số từ ngữ:

Sử dụng tiếng mẹ đẻ sáng tác trong 254 bài thơ là một bước đột phá của Nguyễn

Trãi trong nền văn học nước nhà, trong quá trình đó, nhà thơ còn ý thức Việt hóa một

số từ ngữ. Việc làm này là vô cùng vĩ đại, vì đến thế kỷ XX, Hồ Chí Minh - Người mà

suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho nhân dân có cơm no áo ấm, cũng từng nhắc

nhở chúng ta: "Chúng ta không chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy

đủ thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả

tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu" [142: 255] 109

Dùng từ thuần Việt hay từ Hán Việt là xuất phát từ mục đích nghệ thuật và cũng

xuất phát từ ý thức sử dụng ngôn ngữ của người viết. Ví dụ: Câu thơ "Đìa cỏ được câu

ngâm gió" (Bài 23), hai từ "đìa cỏ" đọc lên nghe cụ thể, sinh động, dân dã hơn hai từ

"trì thảo". Trong QATT cũng rất nhiều lần Nguyễn Trãi dùng từ "đìa " thay cho "trì",

"cỏ" thay cho "thảo".

Mặt khác, dùng từ Hán Việt hay thuần Việt còn tùy thuộc vào sắc thái biểu cảm,

nếu để diễn đạt việc gì trang trọng, thanh nhã thì nên dùng từ Hán Việt; ngược lại, diễn

đạt tình cảm thân mật, giản dị, chất phác thì nên dùng từ thuần Việt. Với phong thái

"túi thơ bầu rượu", "quảy dụng đầm hâm mấy dặm đường", thì "Ngâm sách thằng chài

trong thuở ấy" (Bài 9) là dân dã, bình dị, vì chỉ ở "Đài Tử Lăng, bè Trương Khiên"

mới có cái thú "Ngâm và ngẫm nghĩ ý nghĩa bài "Ngư phủ" của Khuất Nguyên" [134:

657]. Nếu dùng hai từ "ngư phủ" thay cho "thằng chài" thì sự trang trọng của ngôn ngữ

nhiều khi đánh mất phong thái "xuềnh xoàng" của thi nhân. Ở bài 76 cung vậy, "Vị

chúng thằng chài chác cá tươi", đọc lên nghe sao mà gần gũi đến thế, lại còn làm rõ tư

thế "đối ảnh tam nhân" của thi sĩ trước "nguyệt" và "thơ".

Về phong cách: từ Hán Việt thích hợp với phong cách khoa học, phong cách

chính luận, phong cách hành chính, ngược lại với phong cách ngôn ngữ văn chương

thì từ thuần Việt thích hợp hơn từ Hán Việt; "từ thuần Việt là công cụ miêu tả rất quan

trọng của ngôn ngữ văn chương, bởi tính chất cụ thể, gợi hình và sinh động của nó"

[142: 243]. Ví dụ: Câu thơ "Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang" (Bài 129), thì từ "vợ" ở đây

diễn tả được tình cảm thắm thiết của thi nhân với người vợ của mình, nếu thay từ "vợ"

bằng từ "phu nhân", thì xem chừng trang trọng và xa cách quá. Tương tự như vậy,

Nguyễn Trãi rất uyển chuyển khi sử dụng từ "lòng đỏ " hay từ "lòng son", khi viết

"Trung hiếu cương thường lòng đỏ" (Bài 187), câu thơ đầy tính gợi hình, cụ thể và

sinh động. Nhưng ở bài thơ 87 câu thơ "Cương thường khôn biến tấc lòng son", thì hai

từ "lòng son" đã làm cho câu thơ trở nên trang trọng, cứng rắn.

Tuy vậy, chúng ta cũng không cứng nhắc trong việc phân biệt từ Hán Việt hay từ

thuần Việt, mà dùng từ Hán Việt hay thuần Việt là phụ thuộc vào dụng ý nghệ thuật

hay ý thức của người dùng. Như chúng tôi đã trình bày ở phần không gian nghệ thuật,

Nguyễn Trãi đã dùng 6 lần từ "trăng" thay cho từ "nguyệt" (55 lần dùng từ nguyệt),

việc dùng "trăng" hay "nguyệt" tùy thuộc vào ý nghĩa, luật bằng trắc và cách gieo vần 110

của bài thơ (ví dụ: bài 98). Cũng như câu thơ "Lặt hoa tàn, xem ngọc rụng" (Bài 105),

thì "hoa tàn" đi với "ngọc rụng" là phù hợp, nếu dùng "ngọc lạc" lại phá vỡ đi tính cân

đối của câu thơ.

Khi tác giả sử dụng từ "cởi tục" thay cho "giải tục" (Bài 2), "cởi buồn" thay cho

"giải buồn" (Bài 86), "nghìn vàng thay cho "thiên kim" (Bài 77), "nẻo từ" thay cho "từ

thuở" (Bài 107), "coi" thay cho "nhìn" (từ "coi" còn mang đặc điểm là từ địa phương,

nhiều địa phương cho đến nay vẫn còn dùng từ "coi") thì đây là dụng ý của Nguyễn

Trãi trong việc Việt hóa một số từ gốc Hán, và đây cũng là công đầu của Nguyễn Trãi

trong việc góp phần đưa lại cho ngôn ngữ thơ ca sự giản dị trong sáng.

3.3.1.4. Sử dụng từ vựng dân gian.

Có 66 câu trong các bài (57, 85, 87, 92, 106, 112, 115, 120, 121, 124, 131, 134,

135, 136, 142, 147, 148, 149, 161, 163, 167, 171, 178, 179, 192) vận dụng kiểu nói

của tục ngữ, thành ngữ, kiểu nói của nhân dân.

Khó nhận ra ranh giới giữa sáng tạo của Nguyễn Trãi và sáng tác dân gian trong

nhiều câu thơ của QATT. Hiện tượng này thường có ở những cây bút luôn hướng về

cội nguồn, xem việc học tập lời ăn liếng nói của nhân dân là một thiên hướng. Thiên

hướng ấy cũng là thiên hướng ở các bậc thiên tài và sáng tạo của họ bao giờ cũng làm

giàu thêm, nâng cao hơn nữa ngôn ngữ văn chương của dân tộc.

Ví dụ:

"Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi".

Câu trên từ lâu đã được xem là hòn ngọc của ca dao. Gần đây, có người phát hiện

đó là thơ của Bàng Bá Lân. Nếu đúng như vậy thì thật là hạnh phúc cho thi sĩ họ Bàng.

"Truyện Kiều" có nhiều câu kiểu trên.

Ví dụ:

- "Truyện Kiều": "Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường" (Câu 1525)

Ca dao: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng"... 111

Không thể biết được rằng, ở "cặp sinh đôi" trên, ai ra trước, ai ra sau, chúng cùng

tồn tại và làm đông đúc thêm "đàn con cái" là những câu thơ đẹp của Việt Nam.

Vậy 66 câu thơ trong QATT có dáng dấp của kiểu nói dân gian (tục ngữ, thành,

ngữ) cũng được xem là thành công lớn của Nguyễn Trãi ở phương diện "thi pháp ngôn

ngữ".

Ví dụ: Kiểu nói khái quát, triết lí về "thói đời đen bạc", về "nhân tình thế thái":

- "Của nhiều sơn dã đem nhau đến

Khó ở kinh thành thiếu kẻ han" (Bài 133)

"Phú quý thì nhiều kẻ đến chen" (Bài 140)

"Ai thấy rằng cười là thế thái

Ghê thế biến bạc làm đen" (Bài 124)

- "Khống khảy kẻ cười cùng kẻ thốt

Khó khăn người rẻ lẫn người roi" (Bài 106)

Từ câu tục ngữ "nước chảy đá mòn", Nguyễn Trãi diễn đạt theo nhiều kiểu uyển

chuyển, giàu hình ảnh:

- "Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc

Bia đá hay mòn nghĩa chằng mòn" (Bài 87).

- "Để truyền bia miệng kiếp nào mòn" (Bài 182).

Hoặc từ thành ngữ "thuốc đắng dã tật", Nguyễn Trãi liên hệ đến tấc lòng "ưu

ái"của mình:

"Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái

Tật được tiêu, nhờ thuốc đắng cay" (Bài 122)

Dân gian có câu: "Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng", Nguyễn Trãi mượn cách

nói đó nhưng còn mang thêm một tầng nghĩa khác: Từ tình cảm gia đình, liên hệ đến

tình cảm Tổ Quốc:

- "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ

Thấy loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu" (Bài 135)

Về tình cảm anh em trong gia đình, dân gian có câu: "Máu chảy ruột mềm",

"Anh em như thể tay chân"... Nguyễn Trãi diễn đạt theo cách của mình:

112

"Chân tay dẫu đứt bề khôn nối

Xống áo chẳng còn mô dễ xin" (Bài 142)

Với tình cảm bạn bè, Nguyễn Trãi diễn đạt mang nặng tính kinh nghiệm triết lý

kiểu của dân gian:

- "Vụng bất tài nên kém bạn

Già vô sự ấy là tiên" (Bài 163)

- "Một phen bạn đến còn đằm thắm

Hai bữa mừng nhau một mặt không" (Bài 178)

Hoặc từ câu nói của dân gian: "Hữu xạ tự nhiên hương", Nguyễn Trãi lại viết:

- "Lành người đến dữ người duồng

Yêu xạ vì nhân có mùi hương" (Bài 142).

- "Có xạ tự nhiên mùi ngất bay" (Bài 172)

Về tình cảm vợ chồng, Nguyễn Trãi có hai câu thơ thật hay, góp phần làm phong

phú cho kho tàng tục ngữ, thành ngữ của dân gian:

"Thế sự trai yêu thiếp mọn

Nhân tình gái nhớ chồng xưa" (Bài 179).

Hoặc "Kia thừng nọ dai nào có đứt" (Bài 174), "Dợ nọ có dai nào có đứt, (Bài

176) chính là xuất phát từ cách nói dân gian: "kia thẳng nọ dùi", hoặc "Mình dùi anh

thẳng mình ơi, Mình dùi anh thẳng cả đời yêu nhau".

Đặc biệt, trong 66 câu thơ chúng tôi khảo sát, có 14 câu nằm gần trọn trong hai

bài thơ (Bài 148, 149).

Ở bài 148, có cảm giác như Nguyễn Trãi "kết" cả 8 câu "lục ngữ, thành ngữ" vào

trong một bài:

"Ở bầu thì dáng ắt nên tròn

Xấu tốt đều thì rắp khuôn

Lân cận nhà giàu no bữa cốm

Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn

Chơi cùng đứa dại nên bầy dại

Kết mấy người khôn học nết khôn

Ở đấng thấp thì nên thấp 113

Đen gần mực đỏ gần son"

8 câu mà có đến 4 ý tưởng của thành ngữ:

- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài

- Ở gần nhà giàu, đau răng ăn cốm

- Ở gần kẻ trộm, ốm lưng chịu đòn

- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng

Khéo léo xếp đặt các ý tưởng gần nhau, bài thơ đã thể hiện rõ quan điểm về cách

sống, cách ứng xử ở đời; mượn kiểu nói dân gian, nhưng diễn đạt theo cách của mình,

kết cấu theo cách của mình là thành công của Nguyễn Trãi...

Nhưng, nếu là thơ mà cứ diễn đạt theo kiểu triết lí, khái quát, thì sẽ rơi vào khuôn

sáo, khô khan và không có chỗ cho xúc cảm biểu hiện, vì thơ là xúc cảm, nên Nguyễn

Trãi chỉ vận dụng các ý tưởng này đậm đặc trong hai bài, còn các câu khác được hòa

tan trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi. Đó cũng là cách thay thế cho kiểu diễn đạt thông

thường, trung hòa được ngôn ngữ, làm cho lời thơ thêm hàm súc, giàu hình tượng và

tăng sức thuyết phục. Phần lớn, loại câu thơ này nằm vào đề mục "Bảo kính cảnh giới"

- gương báu răn mình, tất cả đều bắt đầu từ kinh nghiệm, sự từng trải, nên phải khái

quát và triết lý...

Những câu thơ mang đặc điểm "dẫn ngữ" trên là biểu hiện ý thức trở về với nhân

dân, trở về với dân tộc, học cách phô diễn tình cảnh với nhân dân... Và với ý thức đó

ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi đã đi vào nhân dân, neo đậu trong lòng nhân dân và

làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ văn học dân tộc.

3.3.1.5. Dụng điển:

"Điển cố là mội cách gọi tên hàm súc hay gián tiếp". Thông thường, thơ ca cổ

điển có xu hướng dụng điển. Dụng điển làm cho câu thơ gọn gàng, biểu đạt kín đáo

suy nghĩ, khát vọng và lí tưởng của tác giả. Cảm quan của con người trung đại là: quá

khứ là tốt đẹp, do vậy điển cố có xu hướng trở về quá khứ, mang tính chất lịch sử. Cơ

sở để điển cố phát huy tác dụng là vừa liên hệ với hiện thực, vừa liên hệ với lịch sử và

thông qua đó, tác giả bày tỏ kín đáo thái độ hay tình cảm của mình, biểu hiện qua việc

miêu tả hay bình luận hiện thực. 114

Điển cố có hai dạng: khẳng định - phù hợp với cảm hứng ngợi ca, phủ định - khi

hiện thực trái với nguyện vọng và cảm xúc cá nhân.

Việc dùng điển cố trong thơ Quốc Âm của Nguyễn Trãi là một thủ pháp nghệ

thuật. Bởi vì số lượng từ ít ỏi (do có pha câu lục ngôn) thì việc dùng điển cố khiến cho

sự việc vốn không thể làm được trở thành tất yếu. Bởi vì, hoàn cảnh, động cơ, quan hệ

nhân vật đều hàm chứa trong tài liệu, bối cảnh được dùng làm điển cố, nên việc giải

thích tường tận đã được thay thế bằng biện pháp ám chỉ giản lược. Nguyễn Trãi vừa

thông kim, vừa bác cổ, vừa mang trong mình tinh hoa văn hóa Hoa hạ (tư tưởng Nho,

Phật, Đạo), tinh hoa văn hóa Việt Nam, nên việc dùng điển của Nguyễn Trãi vừa đa

dạng, vừa tinh tế, lý giải hợp lý ý tứ của điển cũng là để thấy hết sự lấp lánh diệu kỳ

của văn chương Ức Trai.

Trong 226 bài, có 8 lần nhắc đến "Nghiêu Thuấn" - "Vua Nghiêu Thuấn, dân

Nghiêu Thuấn" - vua sáng, tôi hiền... Điển này rất quen thuộc trong văn học trung đại,

việc dùng lặp đi lặp lại ý tưởng "Nghiêu Thuấn" càng thể hiện rõ khát vọng cháy bỏng

trong lòng nhà thơ, là mong sao có "vua sáng chăm lo muôn dân", để trong "thốn cùng

xóm vắng không có tiếng hờn giận oán sầu, 5 lần điển nhắc đến Khổng Tử - Nhan

Uyên - để khẳng định lí tưởng của một nhà nho yêu nước chân chính: "Cuốc cùn ước

xáo vườn chư tử" và dù "Chữ học ngày xưa quên hết dạng, chẳng quên có một chữ

cương thường"...

Day dứt giữa "xuất và xử", ngoài việc sử dụng tiếng "nhàn" 47 lần (45 bài),

Nguyễn Trãi còn sử dụng các điển về Lâm Bô, Đào Tiềm, Khuất Nguyên... Mượn xưa

để nói nay và qua điển xưa càng làm sáng lên vẻ đẹp của cách xử sự của người, nay -

lui về, vời ra lại, hăm hở viết "Biểu tạ ơn", vì:

"Còn có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung".

Điển cố được Nguyễn Trãi sử dụng thường mang nét nghĩa tương đồng (Thương

Chu, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Chu Dịch, Đỗ Phủ, Uyên Minh, Thái Bạch, Tưởng

Hủ, Tô Đông Pha...) và dặc điểm của điển cố là liên quan giữa quá khứ và hiện tại, tạo

nên những liên tưởng sâu sắc.

Bài nào dùng điển, thì điển thường biểu hiện tư tưởng chủ đạo của cả bài, nên có

tính chỉnh thể. 115

Dùng điển cố, câu thơ, bài thơ không còn giữ âm điệu hài hòa mà ngầm chỉ ra sự

phân li giữa cổ và kim, nhờ đó nó tăng thêm cho bài thơ một tầng nghĩa sâu kín hơn,

đó là sự liên tưởng giữa thực tế và quá khứ, thông qua sự liên tưởng đó chúng ta hiểu

hơn khát vọng của tác giả gửi gắm vào bài thơ. Cho nên, có thể xem việc dùng điển

trong thơ Nguyễn Trãi tương đồng với việc dùng yếu tố huyền thoại trong văn thơ hiện

đại, vừa kín dáo, vừa kiệm lời, vừa nói được những điều khó nói.

Muốn chứng minh phẩm chất, nhân cách thì nhắc đến "Khuất Nguyên, Đào

Tiềm... ", nếu xem đời là "giấc mộng" thì có điển nào hay hơn "giấc mộng Nam Kha",

hay điển "rêu bủi bủi", điển về Phật thì có câu "Hột cải tình cờ được mũi kim" (hai

điển này chúng tôi có lý giải ở chương 1 của luận án)..., mơ ước một cuộc sống tốt đẹp

thì chỉ cần 6 chữ là đủ thấy cả một khát vọng: "Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu

Thuấn... "

Vấn đề đặt ra là, "điển" đưa vào thơ phải dựa vào tiền đề hiểu biết giữa tác giả và

độc giả. Do vậy, bài nào dùng điển thì các điển có đặc điểm đầu tiên là "quen thuộc" -

xu hướng của văn học trung đại Việt Nam là dùng điển của văn, sử Trung Hoa, càng

xưa càng có sức thuyết phục. Điển quen thuộc với người Việt Nam là điển về danh

nhân và địa danh (Ví dụ: miền Thái Bạch, đất Đường Ngu, đài Tử Lăng, bè Trương

Khiên... Tô Đông Pha, Đào Tiềm, Khuất Nguyên...).

Đặc điểm thứ hai là điển không cầu kỳ, khuôn sáo, không tối nghĩa và do tần số

lặp đi, lặp lại nhiều lần nên trở thành quen, thành nhớ...

Điển cố xuất hiện có ý nghĩa như là một nguyên mẫu vĩnh viễn vừa gia tăng

nghĩa cho bài thơ, vừa có ý nghĩa khái quát cao ...

Ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa nguyên mẫu có liên quan với nhau. Cảm xúc của nhà

thơ là cụ thể, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng, không ngừng thay đổi; nhưng nguyên mẫu

là vĩnh viễn, do vậy sự tồn tại của điển cố là vĩnh viễn, bất biến.

Văn học hiện đại ít dùng điển cố, có nhiều nguyên nhân: Nguyên nhân chủ quan -

Văn học trung đại Việt Nam trong những thế kỉ cuối có xu hướng dụng điển cầu kì, rối

rắm, làm mất đi vẻ trong sáng vốn có của văn chương. Nguyên nhân khách quan: Nhịp

sống hiện đại, nhu cầu thu nhập lượng thông tin thời hiện đại, cảm thức của con người

ở mỗi thời đại mỗi khác, không giống nhau... 116

3.3.2. Biện pháp tu từ cú pháp.

3.3.2.1. Biện pháp lặp từ, lặp ngữ trong câu.

Thơ là xúc cảm, là tiếng nói nội tâm, mỗi một bài thơ diễn đạt trọn vẹn một ý

tưởng, nên nhà thơ cần sử dụng nhiều từ ngữ giàu hình ảnh, nhiều từ ngữ tương

đương... thơ cần đến sự trùng điệp của ngôn ngữ, sự trùng điệp của âm vận, nhịp điệu,

ý thơ, câu thơ... trùng điệp do lặp từ, lặp ngữ, lặp câu... tạo nên những kiến trúc đầy

âm vang.

Lặp lừ, lặp ngữ có cơ sở của quy luật tâm lí, sự xuất hiện nhiều lần của một từ,

một ngữ nào đó làm người ta chú ý, và phép lặp càng tăng thêm tính cân đối, hài hòa,

nhẹ nhàng, làm cho mạch thơ kéo dài ra như những đợt sóng, chưa kể, từ ngữ được lặp

lại còn có khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn tả được nhiều sắc thái khác

nhau của tình cảm. Nếu nội tâm nhà thơ tràn đầy cảm xúc thì ngôn ngữ thơ cũng phải

chứa đựng một độ thừa thãi khá cao (thông qua phép lặp) cái thừa đó là nghệ thuật; mà

thiếu nó thì thơ không còn là thơ...

Với 1624 câu thơ (1440 câu thể thất ngôn bát cú + 184 câu ở thể thất ngôn tứ

tuyệt) của 226 bài thơ trong QATT thì có đến 92 câu thơ có lặp từ, lặp ngữ, tỉ lệ

92/1624 là 5,67%.

Trong đó có: 19 câu lặp động từ, 17 câu lặp tính từ, 14 câu lặp danh từ 10 câu lặp

trợ từ 13 câu lặp hư từ, 6 câu lặp luôn cả câu và 13 câu lặp đầu đuôi theo thể liên hoàn.

Ở loại câu lặp động từ, động từ được lặp là loại động từ mạnh và có khi được

dùng dồn dập liền hai câu trong một bài, có một câu lặp động từ đến 3 lần (Bài số 132)

vừa tạo ấn tượng mạnh với người đọc, vừa khắc sâu nhấn mạnh một thái độ dứt khoát,

rõ ràng, không thay đổi.

Ví dụ:

- "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược.

Có nhân, có trí, có anh hùng" (Bảo kính cảnh giới, 132).

"Chơi nước chơi non đeo tích cũ" (Thuật hứng, 46).

- "Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng.

Chim bắt trong rừng, cá bắt ao" (Tự thán, 89). 117

17 câu lặp tính từ ở dạng biểu đạt tính cách và phẩm chất của con người, cũng có

khi biểu thị kinh nghiệm, sự từng trải trong đánh giá, nhận định về cuộc đời:

Ví dụ:

"Người ảo hóa khoe thân ảo hóa

Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao" (Thuật hứng, 47)

"Bia đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn" (Tự thán, 87).

- "Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc

Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh" (Tự thán, 99).

Lặp tính từ: "ảo hóa" (x2), "chiêm bao" (x2) đã nhấn mạnh tư tưởng về cuộc đời:

mộng - ảo lẫn lộn, "biến hóa vô thường"...

Với việc lặp lại tính từ "mòn" (2 lần) ở bài 87 là việc sử dụng hư từ "hay"

(thường xuyên xảy ra): "nước chảy đá mòn", và hư từ "chẳng" (khẳng định) tấm lòng

nhân nghĩa không bao giờ phai - không mòn, chẳng mòn, mãi mãi, vĩnh viễn...

Ở 14 câu lặp lại danh từ, là những danh từ chỉ người, chỉ vật, danh từ riêng

"Nghiêu Thuấn", "Đường Ngu" quá quen thuộc trong điển cố, danh từ "nguyệt'' lặp đi

lặp lại vừa biểu hiện sự rung cảm của nhà thơ với ánh trăng trong không gian yên tĩnh,

vừa biểu hiện tình cảm tri âm tri kỉ của thi nhân với bạn "trăng":

Ví dụ:

- "Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không" (Bài 212)

- Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay" (Bài 242).

Trong quá trình lặp lại có sự thay đổi tính chất của từ, có khi cùng một từ ở vị trí

đầu câu mang đặc điểm của động từ, cuối câu lại mang đặc điểm của tính từ, hoặc

danh từ. Sự chuyển đổi này tạo cho câu thơ có chiều sâu của ngữ nghĩa, tăng thêm một

tầng nghĩa, và nhiều khi việc lặp đi lặp lại một từ nào đó càng biểu lộ cảm xúc dâng

trào trong lòng tác giả.

Ví dụ:

"Miệng thế nhọn (1) hơn chông nhác nhọn (2)

Lòng người quanh (1) nữa nước non quanh (2) (Bảo kính cảnh giới, 140)

Nhọn (1) - động từ  nhọn (2) tính từ

Quanh (1) - tính từ  quanh (2) động từ 118

Hay: "Khó ngặt (1) hãy bền lòng khó ngặt (2)

Chê khen (1) mựa ngại tiếng chê khen (2)

Khó ngặt (1) - tính từ  khó ngặt (2) danh từ

Chê khen (1) động từ  chê khen (2) danh từ.

Với loại câu lặp trợ từ "càng" có ý nghĩa nhấn mạnh một trạng thái, một phẩm

chất, một tình thế... của cá nhân:

Ví dụ:

"Càng già càng ngẫm của bùi ngon" (Bảo kính cảnh giới, 182)

"Càng thuở già càng cốt cách" (Bài 214)

Lặp hư từ, nhất là hư từ ở dạng phủ định - "không" có giá trị biểu hiện tình thế

lường phân, ương ương dở dở của tác giả.

Ví dụ:

- "Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải" (Thủ vĩ ngâm).

"Chẳng cao, chẳng thấp miễn qua ngày" (Bảo kính cảnh giới, 146).

- "Chẳng khôn chẳng dại luống ương ương

Chẳng dại người hòa lại chẳng thương" (Bảo kính cảnh giới, 157).

Có 1 câu thơ ở bài 154, lặp hư từ "dầu" (dù) đến 3 lần, và câu thơ đã đạt đến đỉnh

cao của việc biểu đạt tình thế lưỡng phân, trăn trở, suy nghĩ của tác giả: "Dầu về, dầu

ở mặc ta dầu". Câu thơ có 7 âm tiết, mà có đến 3 âm tiết là hư từ , lại điệp, nên ở đây

cái hư đã làm nên cái thực, "dầu" - một trạng thái chấp nhận, gánh chịu, ca dao có câu:

"Dầu thương, dầu ghét, theo chàng em cứ theo"... "Dầu về, dầu ở, mặc ta dầu", về hay

ở, tự ta gánh lấy, tự ta chấp nhận. Câu thơ bộc lộ đúng tâm trạng trăn trở của Nguyễn

Trãi.

Kiểu lặp này, sau này Nguyễn Du sử dụng vào câu thơ lục bát lại còn nhân âm

tiết điệp lên nhiều lần (nhất là ở câu bát - 8 âm tiết), làm cho câu thơ trở nên giàu có về

hình ảnh:

Ví dụ:

- "Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân" (Truyện Kiều - câu 1270).

- "Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình" (Truyện Kiều - câu 240).

- "Giật mình mình lại thương mình xót xa" (Truyện Kiều - câu 1234). 119

Nguyễn Du còn dùng kiểu lặp từ, lặp ngữ để tách khổ thơ, điệp trong câu có phép

đối, tránh cho câu thơ khỏi vẻ trang trọng, gần với dân gian hơn.

Ví dụ:

"Khi gió gác, khi trăng sân" (Truyện Kiều - câu 1295).

- "Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời" (Truyện Kiều - câu 2522).

Riêng phần thơ tuyệt cú việc lặp từ thật đa dạng. Nhiều khi trong một bài, từ cuối

của câu này lại lặp vào từ đầu của câu sau, hoặc ở những bài thơ liên hoàn câu cuối

của bài này là câu đầu của bài kia (có khi là một ngữ)... ở các bài : 200-201, 201-202,

203-204, 204-205, 206-207, 227-228, 228- 229. Từ bài 200 đến bài 207 chùm thơ

"Tiếc cảnh", cứ mỗi bài lặp lại 1 từ hay 1 ngữ của bài trước, tạo thành một thể liên

hoàn gắn bó với nhau, mỗi từ hay mỗi ngữ lặp lại như chứa đựng trong nó sức nặng

của cả bài, nội dung chính cần biểu đạt của cả bài.

Ví dụ:

- "Cầm ngọc tay ai dắng dõi thêm" (Bài 200, câu 4).

"Dắng dõi bên tai tiếng quản huyền" (Bài 201, câu 1).

"Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên"(Bài 201, câu 4).

- "Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành" (Bài 202, câu 1)

Cứ kiểu lặp này cho đến bài 207. Kiểu lặp liên hoàn tạo cho chùm thơ một sự

liên đới, mềm mại, quan hệ hô - ứng, bổ sung cho nhau. Điều đó càng lộ rõ tình cảm

"tiếc cảnh" của nhà thơ với mỗi mùa, mỗi cảnh, tình cảm lưu luyến, níu kéo dựa vào

thế liên hoàn của việc lặp từ, lặp ngữ trong suốt 7 bài thơ tuyệt cú

Trong việc lặp từ, lặp ngữ, Nguyễn Trãi còn sử dụng phép đảo ngữ:

Ví dụ:

"Mưa trách thế gian lòng đạm bạc.

Thế gian đạm bạc đấy lòng thường" (Tức sự, 126).

Đảo ngữ: "thế gian lòng đạm bạc" thành "thế gian đấy lòng thường" là để nhấn

mạnh "thói đời đen bạc".

Có 1 câu sử dụng cả biện pháp tách từ ra rồi lặp.

Ví dụ: "Chơi nước chơi non đeo tích cũ". 120

Động từ "chơi" tách từ "nước non" ra, rồi lặp nhằm nhấn mạnh ý tưởng nhàn tản

của mình.

Nói đến lặp từ, lặp ngữ hẳn ai cũng biết kiểu lặp từ tài hoa trong bản dịch "Chinh

phụ ngâm".

Ví dụ:

"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai"...

Như vậy, phép lặp từ, lặp ngữ vừa tạo độ âm vang cho thơ, vừa làm cho mạch thơ

dường như ảo hóa thêm. Phép lặp kết hợp với việc đảo vị trí để chuyển đổi chức năng

của từ làm tăng thêm tầng ngữ nghĩa. Những nơi ngôn từ lặp lại là những nơi mang

đậm chất thơ, nơi chất thơ lan tỏa. Phép lặp từ, lặp ngữ vừa có độ vang của âm thanh,

vừa tràn ngập cảm xúc và tư duy, và yếu tố trùng điệp này cũng mang lại nét nhạc cho

thơ ca.

3.3.2.2. Câu hỏi tu từ.

"Câu hỏi tu từ là câu, về hình thức là câu hỏi, mà thực chất là câu khẳng định

hoặc phủ định có cảm xúc... Trong thơ ca câu hỏi tu từ có nhiều tác dụng tu từ: Diễn tả

tâm trạng, tình cảm, cảm xúc, miêu tả một cách có hình ảnh và cảm xúc" [68: 262,

264].

Biểu hiện của câu hỏi tu từ ở mặt hình thức là dấu hỏi ở cuối câu và các từ tình

thái: À, ư, nhỉ, nhé, phỏng, ru, chăng, tá...do vậy, ngữ nghĩa cũng như ngữ điệu đều có

thay đổi. Câu hỏi tu từ xuất hiện nhiều trong một bài thơ nhiều khi là chìa khóa để giải

mã bài thơ đó, do cảm xúc, tình cảm của nhà thơ đã được biểu hiện một cách có hình

ảnh và cảm xúc qua câu hỏi tu từ.

Ví dụ: Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử. Có 3 khổ thơ (mỗi khổ 4 câu),

mỗi khổ có một câu hỏi tu từ:

"Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?" (khổ 1)

"Có chở trăng về kịp tối nay ?" (khổ 2).

"Ai biết tình ai có đậm đà ?" (khổ 3) 121

Ba câu hỏi tu từ phần nào biểu lộ sắc thái cảm xúc về một tình cảm dang dở,

không tuyệt vọng, nhưng không thành, những câu hỏi đó đã làm xao xuyến biết bao

tấm lòng độc giả khi đọc đến bài thơ này...

Nguyễn Trãi tận dụng tối đa loại câu hỏi tu từ - đây là biện pháp nghệ thuật mà

thơ ca hiện đại thường sử dụng, vì loại câu hỏi này bao giờ cũng đạt một lúc hai đích:

đưa ngay người đọc vào cuộc và đưa luôn họ vào dòng cảm xúc của câu thơ. Loại câu

hỏi tu từ xuất hiện nhiều trong QATT là vì tâm trạng người sáng tác tập thơ này, như

các chương trước chúng tôi có trình bày, ở QATT ngoài một số bài viết vào thời điểm

trước đó, số còn lại được Nguyễn Trãi sáng tác trong quãng 14 năm cuối đời; lúc này

cái hào khí của cái thời đã làm cho lũ giặc cướp nước "Ra đến bể còn hồn bay phách

lạc, về đến Tàu còn tim đập chân run" chỉ còn là dư âm, mà lâm trạng là: "Giang sơn

dường cách nghìn dặm, Ưu ái lòng phiền nửa đêm". Và dù có nói đến 47 lần tiếng

nhàn trong toàn tập thơ, thì người đọc vẫn nhận thấy Nguyễn Trãi: "Bui một tấc lòng

ưu ái cũ", Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông". Hai.dòng tâm tưởng: nhàn - lo nước,

thương dân ngỡ như tương khắc nhưng lại tương giao và tương sinh trong lòng

Nguyễn Trãi - nên sử dụng câu hỏi tu từ là đã tận dụng tối đa hình thức nghệ thuật

trong việc bộc lộ nội dung - và đây cũng là nét đặc thù trong thi pháp QATT.

Để có được một con số thống kê chính xác về số lượng câu hỏi tu từ trong 226

bài thơ của QATT là một việc làm quá khó khăn. Dựa và dấu hiệu hình thức (do người

sau chép lại, thêm vào, chứ phần lớn thơ chữ Hán, chữ Nôm ngày xưa ít sử đụng dấu

câu). Trong "Nguyễn Trãi toàn lập" [133] có 44 câu sử dụng dấu hỏi tu từ (?), nhưng

nếu dựa vào dấu hiệu ngữ nghĩa thì con số này lớn hơn nhiều.

Ví dụ: Bài thơ "Ba tiêu", ở câu thứ 4, trong "Nguyễn Trãi toàn tập" [133] không

hề có dấu hiệu về hình thức: "Gió nơi đâu gượng mở xem", mà đúng ra phải là: "Gió

nơi đâu ? Gượng mở xem". "Gió nơi đâu ?" là câu hỏi tu từ, bởi vì đối với "Tình thư

một bức phong còn kín" thì phải có loại gió nào đây ? Gió đông ? Gió xuân ? Hay là

ước mơ có một ai đó hiểu mình ? Cụm từ "Gió nơi đâu ?" ở trạng thái tu từ đã biểu

hiện tâm sự ẩn kín, trở nên đa nghĩa với độc giả.

Khi trong lòng nhà thơ chứa đầy cảm xúc với biết bao nỗi ẩn ức về cuộc đời, thế

sự, về sự nghiệp công danh đang ngổn ngang, dở dang... thì câu thơ nào cũng có thể là

câu hỏi tu từ: 122

"Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ

Trời ban tối ước về đâu?" (Ngôn chí, 14)

Câu hỏi tu từ : "Trời ban tối ước về đâu ?" Sao mà nhức nhối, mà xót xa với một

con người từng có sự nghiệp oanh liệt, từng sung sướng tự hào viết "Bình Ngô đại

cáo" - bản tuyên ngôn độc lập hào hùng trong giờ phút trọng đại của dân tộc ta.

Đời dùng thì "hành", đời không dùng thì "tàng" đó là tư tưởng, cách sống của

những nhà nho chân chính Việt Nam. Vậy mà sao nói đến chữ nhàn, thì Nguyễn Trãi

thường dùng những câu hỏi tu từ, những câu hỏi cứ xoáy sâu và tâm thức của độc giả.

Ví dụ:

"Một phút thanh nhàn trong thuở ấy

Thiên kim ước đổi được hay chăng ?" (Ngôn chí, 16).

- "Một phút thanh nhàn trong thuở ấy

Nghìn vàng ước đổi được hay chăng ?" (Tự thán, 77).

Hai câu thơ kết lại ở hai bài thơ đều cùng một ý tưởng: So sánh "một phút thanh

nhàn" với "thiên kim" - "nghìn vàng" (một từ Hán, một từ Việt). Câu hỏi tu từ: "Thiên

kim" (nghìn vàng ước đổi được hay chăng ?) đã nhấn mạnh, khẳng định niềm sung

sướng khi được sống nhàn. Nhưng việc nhắc đi nhắc lại một câu hỏi tu từ, ngoài ý

nghĩa nhấn mạnh và khẳng định, còn chứa đựng nổi ẩn ức nào chăng? Ngay ở bài thơ

35 (đề mục Mạn thuật), mở đầu bài thơ cũng là câu hỏi tu từ:

"Quê cũ nhà ta thiếu của nào?"

Hỏi để khẳng định ở "quê cũ" có "rau trong nội cá trong ao", có "nước biếc, non

xanh, đêm thanh, nguyệt bạc...", nhưng kết thúc bài thơ tác giả lại tự hỏi:

"Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?"

Bởi vì: "Thoi nhật nguyệt đưa qua mấy phút

Áng phồn hoa họp mấy trăm đời?" (Tự thán, 85).

Và Nguyễn Trãi tâm sự:

"Mấy kẻ công danh nhàn lững đững

Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu?" (Bảo kính cảnh giới, 121)

Biết "thanh nhàn" là quý giá, "lẩn thẩn áng mận đào" là vô nghĩa, thế

nhưng có lúc đang ở trong tư thế: 123

"Đạp áng mây, ôm bó củi

Ngồi bên suối gác cần câu"

thì Nguyễn Trãi vẫn thấy buồn, trống trải và thậm chí nghi ngờ:

"Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi

Rêu bủi bủi thấy tiên đâu?" (Trần tình, 41).

Như vậy, câu hỏi tu từ trong QATT trên một phương diện nào đó đã diễn tả được

tâm trạng day dứt, băn khoăn, tâm trạng ấm ức khi phải sống "nhàn". Nguyễn Trãi tự

hỏi mình, tự chất vấn lòng mình về cái hạnh phúc hiếm hoi trong những giây phút thư

giãn tuyệt vời giữa trời mây sông nước:

"Thân đà hết lụy thân nên nhẹ

Bụt ấy là lòng bụt há cầu?" (Mạn thuật, 30).

Hỏi để mà khẳng định, hỏi để mà nhấn mạnh, nhưng hỏi cũng vì trăn trở, trăn trở

do:

"Còn có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung".

Sở dĩ có trạng thái "lo âu" thường trực trong tâm hồn Nguyễn Trãi, vì hơn ai hết

Nguyễn Trãi tự biết mình: "Đống lương tài có mấy bằng mày" (Tùng), tự khẳng định

mình:

- "Một mình lạt thuở ba dông".

- "Nhà cả đòi phen chống khỏe thay".

"Hổ phách phục linh nhìn mới biết".

Nên, không thể "tham nhàn lánh đến giang san" mà phải: "Tài đống lương cao ắt cả

dùng". Hư từ "ắt" là một sự khẳng định, khẳng định lòng tin và quyết chí đợi chờ thì

"ắt được dùng". Nguyễn Trãi tự ví mình như tùng, bách, dạn dày sương gió, sinh ra

không phải để làm khách ở chốn lâm tuyền, mà để làm "bậc đống lương" - "tài đống

lương là tài trị quốc an dân, tài kinh bang tế thế, vì thế sống "nhàn" nhưng luôn sẵn

sàng: "Dành còn để trợ dân này".

Một dạng thức cảm xúc khác thường gặp trong câu hỏi tu từ của QATT, là cảm

xúc chan chứa yêu đời, là tình cảm quyến luyến, thương yêu thiên nhiên cảnh vật và

đặc biệt tình cảm với mùa xuân - mùa đầu tiên của một năm, mùa của tình yêu và tuổi 124

trẻ, mùa của cái dương đang sinh trưởng và hưng vượng, và tin tưởng: "Tiếng chuông

chưa đóng ắt còn xuân?" (Bài 195). Thậm chí, với cảnh hè, Nguyễn Trãi đặt ra một câu

hỏi tu từ rất lạ: "Vì ai cho cái đỗ quyên kêu?" Vì ai? Không vì ai? Tại sao vẫn hỏi, hỏi

vì còn tiếc xuân và chỉ cần bóng xanh của hòe, thì đã não lòng vì tiếc xuân: "Lại có

hòe hoa chen bóng lục Thức xuân một điểm não lòng nhau" (Bài 197).

Và chúng ta còn gặp trong QATT những câu hỏi tu từ ở dạng triết lí khái quát về

nhân tình thế thái. Với trạng thái cảm xúc này, thì câu hỏi tu từ luôn hàm ý khẳng định

một ý tưởng có tính chân lí:

Ví dụ:

"Già mặc số trời đất.

Giàu ai qua vợ con?" (Bảo kính cảnh giới, 182).

"Giàu ai qua vợ con?" - Câu thơ này chứa đựng trong nó ý nghĩa nhân sinh sâu

sắc, bởi "mình thác cho nên mọi của tan".

Hoặc: "Thế gian đường hiểm há chăng hay?

Càng còn đi ấy thác vay

Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp?

Rừng nho nấn ná miễn qua ngày" (Tự thuật, 112).

Hai câu hỏi tu từ xuất hiện trong cùng một khổ thơ mang hai ý tưởng rõ ràng: Há

không biết rằng thế gian đường hiểm hay sao - càng dấn thân hoặc nguy hiểm hoặc chỉ

là giấc mộng Nam Kha mà thôi? Hỏi để khẳng định là một trạng thức an ủi cho tâm tư

còn vướng vít của mình, vướng vít nên "Rừng nho nấn ná miễn qua ngày" và "tóc nên

bạc, bởi lòng ưu ái"...

Triết lí về đạo đức, nhiều khi Nguyễn Trãi sử dụng câu hỏi lu từ ở các câu có

dùng điển cố dể tăng thêm khả năng biểu đạt của nội dung.

Ví dụ:

"Có của hằng cho lại có thông

Tích nhiều con cháu nọ trông

Nghiệp Lưu Quý thịnh, đâu truyền báu?,

Bia Ngụy Trưng cao, há nối tông?" (Bảo kính cảnh giới, 130). 125

Lấy xưa để nói nay, lấy hai lên tuổi lẫy lừng là Lưu Quý (Hán Cao Tổ) và Ngụy

Trưng (tể tướng nhà Đường) để đánh giá: "đâu truyền báu?", "há nối tông?" mà răn

dạy là sống ở đời nên: "Có của hằng cho lại có thông (theo quan niệm dân gian: sống

xởi lởi trời cởi cho...)

Có bài, Nguyễn Trãi mở đầu bằng hai câu hỏi tu từ liên tục vừa tạo sự bất ngờ,

vừa gây sự chú ý:

"Chép hết bao nhiêu sự thế ư ?

Ai ai đã biết được hay chưa ?"

Sau sự bất ngờ đó, tác giả hạ luôn những câu thơ đầy tính triết lí của một cuộc

đời từng trải và đầy kinh nghiệm.

"Kim ngân ấy của người cùng muốn

Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa

Thế sự trai yêu thiếp mọn

Nhân tình gái nhớ chồng xưa" (Bảo kính cảnh giới, 197).

Như vậy, những câu thơ ở dạng hỏi tu từ bao giờ cũng có tác dụng nhấn mạnh và

khẳng định một trạng thái cảm xúc nào đó của tác giả và càng tăng cường tính diễn

cảm của câu thơ, bài thơ.

3.3.2.3. Cú pháp sóng đôi.

Thể thất ngôn bát cú luật Đường thường có đối ở liên thơ thứ 2 và liên thơ thứ 3.

Phép đối vừa tạo sự hô ứng nhau giữa hai câu thơ, hô ứng giữa thanh điệu, từ loại và ý

nghĩa để tạo thành một chỉnh thể độc lập. Phép đối trong một liên thơ thường làm cho

hình ảnh ở liên thơ đó nổi bật, dễ nhớ, dễ thuộc. Và do phải trái nhau về thanh điệu

(bằng đối với trắc), giống nhau về từ loại (danh từ đối với danh từ, tính từ đối với tính

từ , động từ đối với động từ, hư từ đối với hư từ...) nên những liên thơ có đối thường

tạo nên một tiết tấu nhịp nhàng, cân đối hài hòa, giàu nhạc tính, đọc lên thường có ấn

tượng về âm điệu và hình ảnh của nó. Chưa kể, về phương diện ngữ nghĩa, thì câu thơ

thứ nhất thường ở dạng lơ lửng, chưa hoàn thiện, nhờ đến câu thơ thứ hai bổ sung (chứ

không phải tiếp tục), xác nhận điều chứa trong câu thơ thứ nhất và có ý nghĩa khẳng

định cho sự tồn tại hợp lí của chính nó. 126

Kết cấu sóng đôi ở liên thơ thứ 2 hoặc thứ 3 trong các bài thơ ở đề mục "Ngôn

chí" đã biểu đạt được ý tưởng sống "tri túc, tri chỉ" của Nguyễn Trãi.

Ví dụ:

- "Bữa ăn dầu có dưa muối

Áo mặc nài chi gấm là " (Bài 4).

"Tả lòng thanh vị núc nác.

Vun đất ải lảnh mồng tơi." (Bài 10).

- "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Ngày vắng xem hoa bả cây." (Bài 11).

- "Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh

Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi." (Bài 13).

- "Sớm tối hằng lề phiến sách cũ

Hôm dao đủ bữa bát cơm xoa" (Bài 18).

Ở đề mục Thuật hứng, cú pháp sóng đôi lại biểu hiện tâm trạng ưu tư, buồn

phiền, suy tư trước thế sự.

Ví dụ:

- "Người ảo hóa khoe thân ảo hóa

Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao" (Bài 47).

"Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc.

Nước chảy âu khôn xiết bóng non" (Bài 49).

- "Phú quý treo sương ngọn cỏ

Công danh gửi kiến cành hòe" (Bài 73).

- "Rượu đối cầm đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người" (Bài 76)

Ở những bài thơ thuộc đề mục "Bảo kính cảnh giới" kết cấu sóng đôi nặng tính

triết lí, khái quát:

Ví dụ:

- "Khi bão mới hay là cỏ cứng. 127

Thuở nghèo thì biết có tôi lành" (Bài 131).

- "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược.

Có nhân, có trí, có anh hùng" (Bài 132)

- "Dưới công danh nhiều thác cả"

Trong ẩn dật có cơ mầu" (Bài 159).

Với những liên thơ cú pháp sóng đôi có sử dụng từ láy ở cả hai câu thì giá trị

biểu đạt càng tăng và để lại ấn lượng sâu sắc về âm thanh, nhịp điệu với người đọc.

Ví dụ:

- "Hương cách gác vân thu lạnh lạnh

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh" (Bài 158).

- "Cửa thầy giá nhơn nhơn lạnh

Lòng bạn trăng vặc vặc cao" (Bài 167).

- "Vệ Nam mãi mãi ra tay thước

Điện Bắc đà đà yên phận tiên" (Bài 183).

- "Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dõi cầm ve lầu tịch dương" (Bài 170).

- "Tua sá khoan khoan lòng thế ít

Chớ màng cậy cậy khiến lòng phiền" (Bài 186).

- "Mấy phát om thòm dương tích lịch.

Một cơn lừng lẫy tựa phong ba" (Răn giận, 191)

Cấu trúc cú pháp sóng đôi cho phép nhà thơ phá vỡ đến một mức độ nào đó sự

trói buộc của tuyến tính. Nhờ đối ngẫu, mà mỗi bài thơ tự nó hoàn thiện một dạng thức

đặc biệt; tạo nên sự chú ý đặc biệt và cũng lưu lại một cách đặc biệt trong tâm thức của

người đọc.

Sử dụng cú pháp sóng đôi, trong dạng thức đối từ loại thì sẽ có hai trạng thái tu

từ xảy ra là: Nếu từ loại đối nhau mà đồng nghĩa thì trong quan hệ từ vựng sự hòa hợp

sẽ dẫn đến một hiện tượng liên tưởng có sức biểu hiện mạnh mẽ. Ngược lại, nếu từ

loại đối mà trái nghĩa, thì với quan hệ tương phản ở phương diện từ vựng, sự đối chọi

mâu thuẫn nhau ở bề ngoài lại tạo được sự thống nhất một cách biện chứng, có khả 128

năng gợi liên tưởng đến bản chất của hình tượng, đặc biệt là bản chất của những ý nghĩ

chứa đầy ẩn ức, suy tư.

Về phương diện âm thanh, những câu đối là điều kiện để sự đối chọi bằng - trắc

tạo nên âm điệu đều đặn (nếu không đối, có thể tự do "nhất, tam, ngũ bất luận") và

nhịp điệu cũng nhờ thế mà trở nên cân đối hài hòa.

Tuy vậy, ở bài thơ nào, liên thơ nào không đối, hoặc đối không chuẩn cũng là

một thủ pháp nghệ thuật (ngoại trừ liên 1 và liên 4 - luật thơ không yêu cầu phải đối).

Bởi vì, đối không chuẩn là biểu hiện của hai trật tự không được ở trong thế cân bằng,

là một trạng thái tâm tư, cảm xúc có vấn đề và người tiếp nhận nó cần lưu ý đúng mức.

Liên 1 và liên 4 không quy định phải đối, thì thường phải tuân theo cú pháp thông

thường là chịu sự chi phối của quy luật thời gian hoặc quy luật không gian. Ở QATT,

liên 1 thường là biểu hiện không gian yên tĩnh - cảnh núi rừng hay cảnh làng quê thanh

tĩnh.

Ví dụ:

"Non nước cùng ta đã có duyên" (Bài 74).

- "Nắng quáng thưa thưa bóng trúc che

Cây im thư thất sáng bằng the" (Bài 79).

- "Lân la mến cảnh sơn khê" (Bài 88).

Thời gian:

"Ngồi coi tháng lọn lẫn ngày qua" (Bài 94).

"Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều." (Bài 105).

Thể thơ tự do của thơ hiện đại thường không chú trọng đến cú pháp sóng đôi, bởi

nó được tự do về câu chữ, mà thực ra hình thức cân đối của kết cấu sóng đôi đôi khi lại

là trở ngại cho chính sự vận động của tứ thơ.

Ví dụ: "Tiếng chổi tre" - Tố Hữu.

"Những đêm hè

Khi ve ve

Đã ngủ,

Tôi lắng nghe

Trên đường Trần Phú 129

Tiếng chổi tre

Xao xác

Hàng me

Tiếng chổi tre

Đêm hè

Quét rác... "

Ngoài ba dạng thức tu từ cú pháp chúng tôi vừa trình bày ở trên (phép lặp trong

câu, câu hỏi tu từ, cú pháp sóng đôi); còn có dạng thức cú pháp tách biệt, loại này dựa

vào hai dấu hiệu: nhịp điệu và dòng thơ. (Thi pháp nhịp điệu chúng tôi đã trình bày ở

mục 3.3.2.1 của chương này). Kết cấu 8 câu hay 4 câu của mỗi bài thơ đã làm nên nhịp

ngắt tách biệt của mỗi câu thơ. Nhịp điệu 4/3 (2/2/3) - câu thất, 3/3 (2/2/2) - câu lục,

hoặc nhịp lạ 1/5, 2/4, 4/2, 5/2, 2/5... đã tạo thành những điểm dừng, điểm nhấn mang

lại giá trị biểu cảm lớn lao.

Có một dạng cú pháp thứ tư, chúng tôi xin được phép nhắc đến, đó là loại cú

pháp tỉnh lược trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ không gian, tỉnh lược đại danh từ,

tỉnh lược giới từ, hư từ hay tỉnh lược cả động từ v.v... Thơ là một mảnh, một phiến

đoạn của cảm xúc, thơ là cô đúc, là kiệm lời, là "tập mờ" của ngôn ngữ... nên việc tỉnh

lược thành phần của câu nhiều khi lại là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Nếu tỉnh

lược động từ, dùng hư từ thay cho động từ, tức là dùng cái hư thay cho cái thực thì tạo

nên độ sâu thực sự của ngữ nghĩa. Tỉnh lược trạng ngữ chỉ về thời gian cụ thể, không

gian cụ thể lại biểu hiện được trạng thái cảm xúc thường nhật, bất kể thời gian và thời

điểm. Và tỉnh lược đại đanh từ càng khiến cho xúc cảm của bài thơ trở nên "mờ" về

đối tượng, "mờ" đối tượng tạo nên mờ ngữ nghĩa và nhiều khi thơ lại cần đến trạng

thái "mập mờ" đó, hơn là rành mạch kiểu "toán học". Có như vậy mà những câu thơ,

bài thơ thậm chí một từ trong thơ cũng từng làm day đứt, trăn trở biết bao độc giả.

Ví dụ: Bài thơ "Ba tiêu" chẳng hạn, nhà thơ Xuân Diệu đã 3 lần viết về nó, mà

mỗi lần nhà thơ cảm giác như phát hiện ra một điều gì mới lạ, khi thì phát hiện ra bức

thư tình", khi thì phát hiện ra "buồng văn, buồng khuê", và khi lại nói là hai bài thơ

chồng lên nhau. Có bài bình luận lại khẳng định đây là bài thơ tình yêu, có bài bình

luận lại cho là có ý vị thiền... Tất cả mọi sự bình luận, phân tích trùng nhau, trái nhau,

ngược nhau cũng bắt đầu từ nét "mờ" của từ vựng, cú pháp, nhưng nói gì thì nói "Ba 130

tiêu" vẫn cứ là "Ba tiêu", vẫn là "ẩn số" đối với những độc giả "tri kỷ, tri âm"... Thế

mới biết làm thơ không dễ, mà phân tích, bình luận thơ lại càng khó hơn rất nhiều.

3.3.3. Tính nhạc trong QATT.

Tính nhạc trong QATT biểu hiện qua tất cả các phương diện của thi pháp nhịp

điệu, vần thơ, từ vựng và các biện pháp cú pháp tu từ...

Những hình thức ngữ âm tự thân vốn không có nghĩa, nhưng khi thơ ca khai thác

được sự đối lập giữa các nguyên âm trầm bổng cũng tạo nên những biểu tượng ngữ

âm. Ở phương diện từ vựng, việc phối thanh bằng - trắc theo qui luật âm vực cao

(ngang, ngã, sắc) và âm vực thấp (huyền, hỏi, nặng) đưa lại cho thơ âm điệu hài hòa,

cân đối. Với những bài thơ sử dụng âm tiết có nhiều thanh bằng thường diễn tả được

tâm trạng sâu lắng, những nỗi buồn xa vắng mênh mông. Ngược lại, thanh trắc được

sử dụng nhiều trong một bài thơ cũng tạo được biểu tượng về một sự gay gắt, uất ức.

Ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ

biểu hiện bằng từ ngữ mà bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy.

Cú pháp sóng đôi là tiền đề của sự cân đối, sự tương xứng hài hòa giữa các dòng

thơ.

Ví dụ:

- "Đạp áng mây / ôm bó củi

Ngồi bên suối / gác cần câu".

- "Thế sự / trai yêu thiếp mọn

Nhân tình / gái nhớ chồng xưa".

"Lao xao chợ cá / làng ngư phủ

Dắng dõi cầm ve / lầu tịch dương".

Sự phối hợp bằng - trắc, cùng với nhịp điệu tạo thành những âm thanh cao thấp

khác nhau, Và đó chính là âm thanh trầm bổng trong thơ - Cùng với sự trùng điệp

ngôn ngữ do điệp từ, điệp ngữ, việc láy đi láy lại một số âm, một số vần và đặc biệt là

từ láy đã phát huy tối đa yếu tố âm nhạc cho thơ.

Vần thơ phần lớn được kết thúc bằng các phụ âm vang (m, n, ng, nh) tạo ấn

tượng bay bổng, ngân vang góp phần làm cho yếu tố nhạc trong thơ càng rộn ràng,

vang vọng. 131

QATT là thơ thất ngôn luật. Nhạc tính trong thơ thất ngôn đã được định hình qua

niêm luật. Những điều "luật định" ấy, có điều khép (như: nhị, tứ, lục phân minh), có

điều mở (như : nhất, tam, ngũ bất luận). Ở bài thất ngôn bát cú, người cầm bút được tự

do phô diễn nội dung ở 4 câu giữa, tức các câu tam, tứ, ngũ, lục (3, 4, 5, 6), không như

lệ khoa cử ngày trước bắt buộc chúng phải là 2 câu thực, 2 câu luận. Từ các điều mở

của luật thơ thất ngôn, Nguyễn Trãi đã đưa câu lục vào làm thay đổi nhịp thơ, tạo nên

nhạc tính mới.

QATT có 218 câu lục ngôn ở vị trí các câu thơ tam, tứ, ngũ, lục (218/397, tỉ lệ

55% - xem phần 3.3.1, 3.3.2 chương 3).

Ví dụ: - "Dưới công danh / đeo khổ nhục

Trong dại dột / có phong lưu" (Bài 3)

-"Bữa ăn / dầu có dưa muối

Áo mặc / nài chi gấm là" (Bài 4)

"Dễ hay / ruột bể sâu cạn

Khôn biết / lòng người vắn dài" (Bài 6)

Nhịp truyền thống của thơ Đường luật là nhịp 4/3 hoặc 2/2/3, tức nhịp chẵn / lẻ.

Trong QATT, cạnh nhịp chuẩn tối ưu ấy, vì có câu lục nên có nhịp 2/2/2 (140 câu),

nhịp 3/3 (216 câu), nhịp 2/4 (19 câu), nhịp 4/2 (6 câu), nhịp 1/5 (5 câu), là nhịp của thơ

cổ thể và thơ ca dân gian.

Thơ ca dân gian thường thiết kế mã đối xứng. Nhịp thơ cân đối góp phần tạo ra

mã đối xứng, làm cho nhạc câu thơ hài hòa, uyển chuyển. Khi có sự đối xứng thì xuất

hiện vài trò của tư duy. Tư duy nảy sinh từ thi pháp mới là tư duy "tự nó đến", đầy ma

lực, không phải tư duy do "tuyên truyền" mà có.

Nhạc cân đối ở ví dụ 1 (Dưới công danh... có phong lưu), nhạc sóng đôi ở ví dụ 2

(Bữa ăn ... gấm là) và 3 (Dễ hay...vắn dài) nối tư duy người đọc với người viết về niềm

suy tư, về lẽ đời, về cách ứng xử. Mỗi người đọc tùy ở kinh nghiệm sống của mình mà

tìm thấy ở các câu thơ trên một ý nghĩa mới.

Như vậy, các yếu tố trong văn bản là luật bằng - trắc, phép lặp từ, lặp ngữ - là dấu

hiệu của sự hô ứng, liên kết gọi nhau của các yếu tố ngôn ngữ... từ sự đối lập của các 132

nguyên âm mở và khép, vang và tắc..., sự phối. hợp với phụ âm vang, yếu tố nhịp điệu,

yếu tố vần thơ..., trong đó có sự góp sức đáng kể của nhịp thơ đa dạng ở các câu lục.

Cộng với các yếu tố ngoài văn bản là sự vang ngân của tấm lòng và sự cộng hưởng của

trái tim... Tất cả đều phối hợp với nhau tạo thành sự phối hợp âm thanh (thêm về

khuôn âm cao, sáng, mở) đã khiến cho QATT có tính nhạc tràn đầy. Và nhiều khi câu

thơ, bài thơ ta chưa kịp hiểu hết ý nghĩa của nó thì đã bị chinh phục ngay trong âm

điệu. Thơ hay ý ở ngoài lời (Thi tại ngôn ngoại); câu thơ cuốn hút, đọc xong nhạc vẫn

vang mãi trong lòng. "Chữ nghĩa làm sao nói lên được hết cái tinh túy của mạch văn.

Ý nghĩa của thiên và chương phải tìm trong âm thanh của nhạc" (Phan Huy Ích).

Như vậy, ở phần thi pháp ngôn ngữ, chúng tôi đã khảo sát thi pháp từ vựng ở các

phương diện: hư từ, từ láy, Việt hóa từ Hán Việt, sử dụng từ vựng dân gian, dụng điển.

Khảo sát một số biện pháp tu từ cú pháp: biện pháp lặp từ, lặp ngữ trong câu, câu hỏi

tu từ, cú pháp sóng đôi... Kết hợp với phần âm vận để nêu một vài vấn đề về tính nhạc

trong QATT...

Việc sử dụng từ thuần Việt là đóng góp của Nguyễn Trãi trong việc giữ gìn sự

trong sáng của tiếng Việt, cũng như vận dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân,

Nguyễn Trãi đã làm giàu thêm, nâng cao hơn nữa ngôn ngữ văn chương của dân tộc.

Việc sử dụng một số lượng lớn hư từ nới lỏng sự trói buộc về mặt ngữ pháp, đưa lại

nét "mờ" ngữ nghĩa - cứu cánh cho việc bộc lộ những xúc cảm đầy ẩn ức, lại vừa sử

dụng các biện pháp lặp từ, lặp ngữ tạo được độ âm vang cho thơ và làm cho mạch thơ

dường như ảo hóa thêm. Các loại từ láy sử dụng vừa có ý nghĩa tạo hình, vừa có ý

nghĩa tạo nghĩa, vừa làm tăng ý nghĩa biểu đạt qua ấn tượng thanh âm. Sử dụng các

biện pháp tu từ cú pháp cũng đã tận dụng tối đa hình thức nghệ thuật trong việc bộc lộ

nội dung.

Đến đây; có thể nói thêm rằng: nếu ngày nay thế giới mặc nhiên xem tiếng Anh

là ngôn ngữ thứ hai của nhân loại, và đều biết rằng lịch sử phát triển của ngôn ngữ này

được đánh dấu bằng bản anh hùng ca vĩ đại Beowolf cách đây 1000 năm, thì tiếng Việt

hiện đại của ta cũng phát triển trên cơ sở của tiếng Việt cổ và tiếng Việt cổ được phản

ánh đầy đủ nhất, tinh túy nhất trong QATT (cách đây 500 năm). 133

Như vậy, thi pháp QATT ở phương diện: thể loại, âm vận, ngôn ngữ đã phần nào

làm sáng tỏ vấn đề mà luận án đặt ra là sức sống lâu bền và sức tỏa sáng của QATT nói

lên sức mạnh nghệ thuật tự nó, vốn có, tiềm ẩn trong thi pháp của nó.

Đi vào thi pháp thể loại, luận án đã c ố gắng giải quyết hiện tượng câu lục ngôn

trong 163 bài (163/226) bài thơ luật vừa là dụng ý nghệ thuật, vừa là sự cách tân về

hình thức của Nguyễn Trãi. Một con người vốn dĩ rất ý thức về nền văn hiến đất nước

muốn góp phần dân tộc hóa một thể thơ ngoại lai để không thay đổi được nhiều thì chí

ít cũng cấu trúc lại đôi chút hình hài để phả vào đó cái hồn Việt Nam. sử dụng câu thơ

lục ngôn ở rất nhiều vị trí trong bài thơ, với nhịp điệu hết sức đa dạng, biến ảo chứng

tỏ người sử dụng nó thành thạo trong thi pháp của mình. Và đây là thành công của

Nguyễn Trãi trên phương diện nghệ thuật, phương diện thể loại, phương diện tinh

thần.

Thi pháp QATT ở phương diện âm vận đã đi vào khảo sát, thống kê các loại nhịp

đa dạng trong hai loại câu thơ: câu thất ngôn và câu lục ngôn, từ đó tìm hiểu giá trị các

loại nhịp cụ thể trên mỗi câu thơ và trong cả bài thơ. Việc đổi nhịp, đảo nhịp trong thơ

thường kéo theo sự đổi thay của tiết tấu, giọng điệu. Nếu nhịp điệu thong thả, bằng

phẳng kéo theo giọng điệu chậm rãi, lắng sâu, nhịp điệu dồn dập, gấp khúc lại biểu

hiện của giọng điệu vướng vít, trăn trở, khổ đau... Nguyễn Trãi thường tận dụng việc

đổi nhịp, đảo nhịp bất thường để diễn đạt những ý tưởng về nội dung.

Ở phương diện vần thơ, cả 226 bài đều được gieo vần nghiêm nhặt, chặt chẽ theo

luật định của thơ ca, không bị ép vần hay sái vận.

Dùng tiếng Việt để sáng tác, ngôn ngữ trong QATT đạt đến mức dân dã nhất, tinh

túy nhất và cũng dân tộc nhất trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vựng, cú pháp.

Ngôn ngữ văn chương được chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường và đến lượt nó làm

phong phú thêm, trong sáng thêm ngôn ngữ đời thường. Nguyễn Trãi không chỉ học

tập lời ăn tiếng nói hàng ngày trong tục ngữ, ca dao, mà còn làm phong phú thêm kho

tàng ngôn ngữ đó và ông còn có công Việt hóa một số từ Hán Việt, đưa lại cho tiếng

Việt bản sắc dân tộc và sự trong sáng của ngôn ngữ. Ngoài ra, việc sử dụng một số

lượng lớn hư từ, từ láy, câu hỏi tư từ trong QATT chứng tỏ người sử dụng nó rất thành

thạo trong thi pháp của mình.

134

C. KẾT LUẬN

Năm trăm năm trước thời Nguyễn Trãi, tính từ năm 939 Ngô Quyền "xưng nền

độc lập", chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc, chứng tích chữ Nôm còn đó, nhưng văn

thơ viết bằng chữ Nôm lưu lại hầu như không còn gì, trừ 5 văn bản chúng tôi đã nêu ở

phần dẫn nhập. Chúng ta không đủ dữ kiện để xem xét con đường tìm tòi, sáng tạo,

cách tân trong việc dùng chữ Nôm để sáng tác văn thơ viết bằng tiếng mẹ đẻ trước

QATT? "Khoảng trống" ấy đáng đặt một dấu hỏi lớn? Bởi lẽ 5 thế kỷ oai hùng ấy,

chiến công hiển hách (phá Tống, bình Nguyên...), nước nhà độc lập, tinh thần tự chủ

lên cao (hào khí Đông A), bộ phận văn thơ chữ Hán (như văn thơ Lý Trần) đạt được

thành tựu lớn, văn nhân thi sĩ lắm bậc tài hoa. Họ là những nhà sư, việc đời giỏi như

việc đạo (Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác...), các vị tướng cầm bút chúng kém cầm

quân (Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão...), lại có người được xem là

có công đầu góp phần làm ra chữ Nôm (Hàn Thuyên)... Hẳn là họ đã có làm gì đó để

lát những "viên gạch" cho sự ra đời của QATT? Phải chăng, để đồng hóa người Việt

người Minh đã xóa bỏ di sản văn hóa Đại Việt, tạo ra "khoảng trống" ấy?

Từ khoảng trống ấy bước ra, QATT là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh

liệt của tiếng nói, chữ viết và nền văn học dân tộc. Nó góp phần cùng những thành tựu

văn hóa khác khẳng định sự thật lịch sử: Đại Việt vốn là một quốc gia văn hiến: "Duy

ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang" (Bình Ngô đại cáo).

QATT là thành tựu văn học đột xuất mở đường cho dòng văn học viết bằng tiếng

mẹ đẻ (Hồng Đức quốc âm, Bạch Vân quốc ngữ, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, Văn

tế nghĩa sĩ Cần Giuộc...).

Sức sống lâu bền và sức tỏa sáng của QATT nối lên sức mạnh nghệ thuật tư nó,

vốn có, tiềm ẩn trong thi pháp của nó. QATT đã chiếu rọi được ánh sáng tâm hồn, đã

vẽ được diện mạo bức tranh tâm lí của chính người làm ra nó. Và, qua nó, người đọc

liên tưởng đến sức mạnh tinh thần, bề dày văn hóa của một gia đình, một dòng họ, một

cộng đồng xã hội, một dân tộc, một truyền thống, một cõi tâm linh... đã sản sinh ra

thiên tài và thiên tài ấy đã tác động trở lại. 135

Luận án "Thi pháp QATT" dựa vào thành tựu khảo sát QATT của người đi trước,

góp thêm tiếng nói của mình ngõ hầu mong muôn lí giải được phần nào sức mạnh

nghệ thuật tự nó, vốn có, tiềm ẩn trong thi pháp của QATT.

QATT là một tác phẩm cổ như một thứ "đồ cổ" vô giá. Thưởng thức vẻ đẹp của

"đồ cổ" phải có bề dày về văn hóa, bề dày về vốn từ Hán Nôm, bề dày về tri thức văn

hóa cổ và cần cả tri thức văn hóa chuyên ngành. Ngay như "Truyện Kiều" có số tuổi

chưa bằng một nửa tuổi QATT mà ngày nay lớp học sinh đã có bằng tú tài muốn

thưởng thức vẻ đẹp của nó cũng cần có tri thức để vượt qua rào cản về điển cố và từ

Hán Việt. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất, là phương tiện phản ánh của văn chương. Việc

làm đầu tiên của "Thi pháp QATT" là lưu ý về văn bản QATT, chọn lựa cách phiên âm,

chú giải một số từ cổ hoặc điển cố ở một số văn bản QATT để tìm về văn bản thực lực

của nó mà nghiên cứu thi pháp trên văn bản thực lực đó, đồng thời loại trừ những bài

còn tồn nghi về sự trùng nhau giữa thơ Nguyễn Trãi và thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Từ điểm nhìn, cách nhìn của Ức Trai về thế giới, về nhân sinh, "Thi pháp

"QATT" tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của tác giả về con người, về không gian và

thời gian nghệ thuật.

Từ lúc bước vào đời (mới ở tuổi 20), Nguyễn Trãi đã có nhãn quan chính trị sáng

suốt, đổi mới. Là cháu ngoại tôn thất nhà Trần, ông lại ra làm quan cho nhà Hồ - một

triều đại có biết cách tân một số chính sách cai trị (tiền tệ đo lường, chữ Nôm...) - bởi

ông thấy vận khí nhà Trần đã h ết; "người quân tử theo thời thông biến". Muốn cứu

nước phải tìm minh chủ hào kiệt, ông không theo Trần Quý Khoáng mà tìm đến với Lê

Lợi. Ông thực hiện chữ hiếu cũng không giáo điều, cứng nhắc, chia tay cha ở ải Bắc để

về lo nghiệp lớn cứu nước. Đường lối chiến tranh của ông - mưu phạt tâm công - là

đường lối chiến tranh tiên tiến của mọi thời đại. Chữ nhân, chữ nghĩa của thánh hiền

qua tay ông đã mang đầy đủ nội dung tích cực và tiến bộ. Ông là người nối chí cha ông

cực kì xuất sắc và đã góp phần làm giàu thêm truyền thống tổ tiên. Ông là người đầu

tiên ở một xứ sở nhỏ bé phương Nam dám xưng văn hiến với phương Bắc, dám gọi

hoàng đế thiên triều là "giảo đồng" (nhãi ranh), bởi lẽ hắn là kẻ "cùng binh độc vũ gây

nên cảnh "bại nghĩa thương nhân". Khi được dùng thì "như ngựa đến tuổi già còn

kham rong ruổi... như thông qua năm rét càng dạn tuyết sương", khi phải về thì "Ngâm 136

câu danh lợi bất như nhàn". Ngâm thơ nhàn mà lòng "Chẳng quên có một chữ cương

thường".

Luận án đã xác định thời điểm Ức Trai viết QATT. Trừ một vài bài làm trước lúc

Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang dâng "Bình Ngô sách", QATT là tiếng lòng của một con

người đã từng làm nên lịch sử, đang đứng giữa dòng chảy của cuộc dời, bỗng phải

"Tham nhàn lánh đến giang sơn", ở cái độ tuổi "Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng

thế", ảnh hưởng của tư tưởng Nho, Phật, Đạo bề dày tri thức văn hóa cổ kim; ý thức

dân tộc và tinh thần thời đại, cá tính và tài năng..., tất cả tạo dựng nên thế giới quan,

nhân sinh quan trong QATT. Mâu thuẫn giữa lý tưởng và thực tại, giữa hoài bão cao

đẹp với sự thật phũ phàng... đã để lại trong QATT một "âm hưởng thế sự", một nỗi đau

đời rất đặc biệt.

Trong QATT, ông nói chuyện "Vấn quân hà bất quy khứ lai?" (Hỏi người sao

chửa về đi - Côn Sơn ca), chuyện chữ nhàn, chuyện lánh đục tìm trong. Nhưng bên

dưới dòng chảy của chữ nhàn lại ánh lên một nỗi lo nước thương đời không phút nào

nguôi. Tấc lòng son đau đáu ấy, tấc lòng mà hậu thế đánh giá là "quang khuê tảo" ấy

ngời sáng sau từng câu chữ, từng điển cố... nói về "Trường Canh... Pha Lão..."; "Chè

tiên nước ghín bầu in nguyệt", "Hiên mai cầm chén hỏi trăng"... Cái chất "thi tại ngôn

ngoại" ấy, cái chất trữ tình thấm đẫm ấy không chỉ toát ra từ một số câu thơ, bài thơ

hay mà dường như nó ẩn hiện trong toàn bộ 226 bài thơ Quốc âm còn sót lại của Ức

Trai. Trong thơ mình, Ức Trai thực sự là "ông tiên ở trong lầu ngọc", mà tấm lòng yêu

nước, lo đời vẫn không phút nào nguôi. Giải quyết được mối quan hệ biện chứng

dường như mâu thuẫn ấy nhất quán trong toàn bộ 226 bài thơ là một nét đặc thù của thi

pháp QATT.

Trong thơ Quốc âm của mình, Ức Trai trở về với thiên nhiên cây cỏ, về với cuộc

sống dân dã đời thường rất đỗi thân thương và rất đỗi Việt Nam. Ở phương diện này,

Nguyễn Trãi đã đạt đến sự vĩ đại của một bậc vĩ nhân, khi đưa vào thơ của mình những

cái bình thường trong cuộc sống, từ ao rau muống, lãnh mồng tơi, ao niềng niễng, đến

con vằn, con vện... Nhà thơ lớn khi họ nhìn thấy trong những cái giản dị binh thường

những ý tưởng vĩ đại và tâm hồn họ vượt lên cái đã có của người đi trước, sáng tạo cho

mình một thế giới thi ca - về với cội nguồn, về với dân tộc. Thi pháp về cái hàng ngày 137

được Nguyễn Trãi đột phá vào thế kỷ XV, vậy mà phải 3, 4 thế kỷ sau mới có người kế

thừa nó.

QATT là tập thơ có bề dày viết bằng chữ Nôm, coi như sớm nhất, còn sót lại,

mặc dù số phận của nó đã "ba đào" ngay sau đại họa của chủ nó. Sử dụng tiếng mẹ đẻ

để sáng tác, cách đây những 500 năm, qua một thứ chữ viết mà mãi đến đầu thế kỷ

XX, vẫn còn bị một bộ phận con nhà "cửa Khổng sân Trình" coi là "nôm na mách

qué", chứng tỏ Ức Trai dũng cảm biết bao, ý thức mạnh mẽ nhường nào đối với vận

mệnh của tiếng nói, chữ viết và nền văn học dân tộc. Dùng tiếng Việt để sáng tác,

ngôn ngữ trong QATT đạt đến mức dân dã nhất, tinh túy nhất và cũng dân tộc nhất

trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vựng, cú pháp. "Sau Nguyễn Trãi, Việt thi có

thể não nùng hơn như thơ Cung Oán, có thể đài các hơn như thơ Kiều, có thể bi thống

hơn như thơ Thập Loại Chúng Sinh, có thể réo rắt hơn như thơ Chinh Phụ. Có thể bay

bướm hơn như thơ của Nguyễn Công Trứ, có thể nhẹ nhàng hơn như thơ của Nguyễn

Khuyến, có thể xúc động hơn như thơ của Phan Bội Châu. Nhưng thực khó mà đạt

được đến sự cao cả, sự chân thành, sự sáng sủa và sự thanh nhã của Nguyễn Trãi trong

tâm tư, trong thi tứ và trong ngôn từ của thơ." [104: 16]

Nguyễn Trãi có dụng ý nghệ thuật vận dụng câu thơ sáu tiếng của thơ cổ thể và

thơ lục bát vào thơ luật Đường (163/226 bài), là một việc làm có ý nghĩa cách tân. Sử

dụng được câu lục ngôn ở rất nhiều vị trí trong bài thơ, với nhịp điệu hết sức đa dạng,

biến ảo, chứng tỏ người sử dụng nó thành thạo trong thi pháp của mình. Và đây là

thành công của Nguyễn Trãi trên phương diện nghệ thuật, phương diện thể loại,

phương diện tinh thần, nói như Tố Hữu: "Cái gì đã tới Việt Nam thì cũng Việt Nam

hóa như thế nào đó và sẽ xứng đáng là con cháu Việt Nam". Nguyễn Trãi gặp Lý Bạch

ở chỗ không chịu gò bó vào một khuôn phép cố định để rộng đường cảm xúc tư duy.

Nguyễn Trãi là người Đại Việt ông còn muốn làm một cái gì đó cho dân t ộc mình. Đó

cũng là nét chung trong tính cách các thiên tài. Dĩ nhiên, bất cứ một sự đổi mới nào, ở

buổi ban đầu, tránh sao khỏi sự trục trặc kỹ thuật. "Thơ buông" (theo Thi nhân Việt

Nam), ''thơ bậc thang, thơ không vần hoặc lối dùng chữ đặt câu quá tây của Xuân

Diệu" (theo Hoài Thanh và Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam) lúc mới đến, không phải

đã hợp ngay "tì vị" người Việt. Phàm là, đã có chỉnh thể ắt có biến thể. Chúng cùng tồn

tại, đấu tranh và bổ sung hoàn chỉnh cho nhau. Thơ ca viết, thơ ca truyền miệng... cũng 138

không ra ngoài lệ ấy. Ca dao cũng có câu lục chỉ có 5 tiếng, hoặc 10 tiếng. Đưa câu thơ

6 tiếng vào thơ thất ngôn theo luật định, tác giả cùng đưa theo đó sự cải biến cần thiết,

trong chừng mực hệ thống âm vận, tiết tấu, nhịp điệu... Việc cải biến ấy được kết hợp

với hệ thống biện pháp tu từ khác tạo cho QATT có một giọng điệu riêng, khó lẫn với

giọng điệu thơ ca đời sau.

Ức Trai làm thơ chữ Hán thì chỉn chu niêm luật, làm thơ chữ Nôm lại phá cách.

Trong thơ quốc âm của ông, có cả cảnh phong hoa tuyết nguyệt của văn chương bác

học lẫn với cảnh "vớt bèo cấy muống", "lao xao chợ cá", "vun đất ải lảnh mồng tơi"...

của văn chương bình dân.

Nhìn tổng quát, thi pháp QATT in đậm dấu ấn ức Trai. Dấu ấn này không là hiện

tượng đơn lẻ trong thi ca mà nó bắt nguồn có hệ thống từ toàn bộ thân thế, sự nghiệp

chính trị, sự nghiệp sáng tác của Ức Trai, từ cách ứng xử của ông trước và sau cái mốc

"Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế".

Văn là người, người làm ra văn. Cuộc đời, sự nghiệp, ý chí, cảm xúc của Ức Trai

là một thể thống nhất, kết hợp hài hòa tính cách anh hùng với tài hoa thi nhân. Anh

hùng là cốt cách, cốt cách ấy được thăng hoa qua bàn tay tài nghệ độc đáo của thi nhân

làm nên hồn phách riêng - dấu ấn Ức Trai - cho QATT. Cái hồn phách độc đáo, đặc

sắc ấy đã giúp QATT sống mãi với thời gian.

"Thi pháp QATT" bằng con đường giải mã thi pháp mong muốn tìm ra được sức

mạnh nghệ thuật ẩn chứa trong QATT. Song, tài hoa của Ức Trai là của bậc thiên tài,

người viết luận án này kiến thức còn nông cạn, lực bất tòng tâm, e rằng công trình

chưa lí giải được là bao và chắc là không tránh khỏi khiếm khuyết. Mong nhận được

những góp ý và chỉ bảo của các bậc thức giả.

139

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, (4/1962), Sự cần thiết chỉnh lí tài liệu trong công tác nghiên cứu

và phiên dịch, Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh, (3,4/1970), Về cách phiên âm và dịch "Quốc âm thi tập" và "Ức

Trai thi tập", Tác phẩm mới, Hà Nội, tr. 99-105.

3. Đào Duy Anh, (1975), Chữ Nôm nguồn gốc – cấu tạo - diễn biên, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

4. Arixtôtơ, (1964), Nghệ thuật thơ ca, văn hóa, nghệ thuật, Hà Nội.

5. M.Bakhtin, (1979), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục.

6. M.Bakhtin, (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường

viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

7. Thương Chính, (1987), Thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Trương Chính, (16/8/1980), Về bài "Góc thành Nam", Văn nghệ số 23.

9. Nguyễn Tài cẩn (3/1986), Thử tìm cách xác định tác giả của một số bài thơ hiện

chưa rõ là của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Tạp chí văn học.

10. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ nôm, Nxb Đại học và trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

11. Nguyễn Huệ Chi, (3/1986), Nguyễn Trãi nhìn từ một nhân cách lịch sử đến dòng

thơ tư duy thế sự. Tạp chí văn học.

12. Nguyễn Huệ Chi, (9/1962), Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi, Tạp chí

văn nghệ.

13. Chuyện làng văn Việt Nam, (1987), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Dương Bá Cung, (1968), Ức Trai di tập. Ngô Thế Vinh, Nguyễn Năng Tĩnh đề

tựa, 7 quyển, Phúc khê tàng bản, Thư viện khoa học xã hội A. 139, Thư viện Sử

học, HV .23, Hà Nội.

15. Xuân Diệu, (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

16. Xuân Diệu, (5/7/1980), Xúc cảm thơ trong thơ Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ số 27.

17. Xuân Diệu, (1/3/1980), Hành văn trong thơ Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ số 9.

18. Xuân Diệu, (2/8/1980), Bài thơ "Ba tiêu" của Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ số 31. 140

19. Lê Chí Dũng, (3/1993), Về quan niệm văn học của Nguyễn Đình Chiểu, Đại học

Tổng hợp Hà Nội, Tạp chí khoa học.

20. Trần Hữu Duy, (1994), Nho - Phật - Đạo và ảnh hưởng của ba học phái đó trong

văn học Việt Nam cổ trung đại, Đại học Sư phạm Huế.

21. Nguyễn Sĩ Đại, (5/1995), Sự lặp lại của các từ hay nghịch lí giữa chữ và nghĩa

trong thơ Đường tứ tuyệt, Tạp chí Văn học.

22. Quang Đạm, (4/1980), Nội dung tư tưởng và hình thức văn học của "Đại cáo

bình Ngô", Tạp chí Văn học.

23. Trần Thanh Đạm, (1994), Dẫn luận văn học so sánh, Tài liệu tham khảo cho

nghiên cứu sinh trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

24. Trần Thanh Đạm, (1995), Sự chuyển tiếp của văn chương Việt Nam sang thời kỳ

hiện đại, Chương trình bổ túc kiến thức cho nghiên cứu sinh, TP.Hồ Chí Minh.

25. Hữu Đạt, (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục.

26. Trịnh Bá Đĩnh, (1/1994), Tìm hiểu phong cách dân gian trong thơ nôm Nguyễn

Khuyến, Tạp chí văn học.

27. Cao Huy Đỉnh, (1976) Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội.

28. Phạm Trọng Điềm, (3/1958), Một vài ý kiến trao đổi với bạn Đào Tử Minh về

vấn đề phiên âm và chú thích cuốn Quốc âm thi tập, Văn sử địa, số 38, Hà Nội.

29. Nguyễn Kim Đính, (6/1985), Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn từ,

Tạp chí văn học số 5.

30. Phạm Văn Đồng, (19/9/1962), Nguyễn Trãi - Người anh hùng của dân tộc, Báo

Nhân dân, số 3099.

31. Lâm Ngữ Đường, (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb Văn học.

32. Hà Minh Đức, (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo

dục.

33. Hà Mình Đức (chủ biên), (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

34. Mai Ngọc Chừ, (1991), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

35. Lam Giang, (1983), Khảo luận về thơ, Nxb Đồng Nai, Hà Nội. 141

36. Nguyễn Thạch Giang, (4/1996), Nguyễn Trãi thơ và tâm sự của ông, Sông

Hương số 4.

37. Giảng văn văn học Việt Nam (1997), Nxb Giáo dục.

38. Võ Nguyên Giáp, (11/10/1980), Nguyễn Trãi nhà văn hóa kiệt xuất, Báo Văn

nghệ số 41.

39. Trấn Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (Phiên âm chú giải), (1956), Quốc âm thi tập,

Văn sử địa, Hà Nội, 198 trang.

40. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), (1997), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.

41. Trần Văn Giàu, (21/9/1962), Nguyễn Trãi, Báo thống nhất số 27, (Ký tên: Tầm

Vu).

42. A. Gurevich, Những phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch. Tài liệu

của trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh.

43. Dương Quảng Hàm, (1993), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb tổng hợp Đồng Tháp.

44. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, (1992), Từ điền thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục.

45. Hoàng Văn Hành, (1985), Từ láy trong tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Nguyễn Thị Bích Hải, (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, Huế.

47. Lê Anh Hiền, (4/1983), Đi tìm một số biểu hiện cụ thể về giọng điệu trong thơ

Việt Nam qua ngôn ngữ Bác Hồ, Tạp chí Văn học.

48. Đỗ Đức Hiểu, (1992), Một số vấn đề thi pháp học, Văn nghệ, Số 16 (tr. 6-15).

49. Đỗ Đức Hiểu, (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội Nxb Mũi

Cà Mau.

50. Nguyễn Văn Hoàn, (4/1980), Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển

của Lịch sử Văn học Việt Nam, Tạp chí Văn học.

51. Minh Hiệu, (26/7/1980), Một bản lĩnh thơ dân tộc. Mấy suy nghĩ nhân đọc thơ

Quốc âm của Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ số 30.

52. Hợp tuyển thơ văn Việt nam thế kỷ X đến kế kỷ XVII (1976), Nxb Văn học, Hà

Nội.

53. Bùi Công Hùng, (1994), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học xã

hội. 142

54. Nguyễn Phạm Hùng, (4/1980), Về diễn tiến của thơ trữ tình thời Trần, Tạp chí

Văn học.

55. Nguyễn Phạm Hùng, (1996), Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục.

56. Nguyễn Phạm Hùng, (2/1998), Vài nét về loại hình thơ Vô đ ề Việt Nam thời

trung đại, Tạp chí Văn học, tr.38-39.

57. Tất Hùng, (10/1998), Thiên nhân hợp nhất - thế giới vi mô và vĩ mô có chung

những qui luật, Tri thức trẻ, số 40.

58. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trong cận đại, Nxb Văn

hóa - thông tin, Hà Nội.

59. Đỗ Văn Hỷ, (6/1967), Góp phần giải quyết những tồn nghi trong Quốc âm thi

tập, Tạp chí Văn học, Số 6, Hà Nội.

60. Đỗ Văn Hỷ, (2/1971), Một vài ý kiến về việc dịch nghĩa, phiên âm và chú thích

trong hai tập thơ chữ Hán và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Tạp chí Văn học.

61. Đỗ Văn Hỷ, (4/1983), Cái hay trong thơ xưa dưới con mắt nhà thơ xưa, Tạp chí

Văn học.

62. R.Jacobson, (1994), Thi pháp học, Người dịch Trần Duy Châu, Tài liệu tham

khảo trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

63. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, (1978, 1998), Lịch sử văn học

Việt Nam thế kỉ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Dư Khánh, (1995), Phân tích tác phẩm văn học trên góc độ thi pháp,

Nxb Giáo dục.

65. Dương Văn Khoa, (21/10/1995), Cây thông trong bài Tùng của Nguyễn Trãi,

Báo Văn nghệ.

66. M.B. Khrapchenkô, (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, Tập 2.

67. Nguyễn Xuân Kính, (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Đinh Trọng Lạc, (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

69. Nguyễn Lai, (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội. 143

70. Nguyễn Lai, (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục.

71. Trần Xuân Ngọc Lan, (2/1981), Góp thêm một số ý kiến về bản phiên âm Quốc

âm thi tập, Tạp chí ngôn ngữ.

72. Trần Xuân Ngọc Lan, (3/1984), Dấu vết về tổ hợp âm đầu tiên trên chữ nôm, Tạp

chí ngôn ngữ.

73. Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng, (1994) Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục. Đại học

sư phạm, Hà Nội I.

74. Nguyễn Hiến Lê, (1991), Khổng Tử, Nxb Văn học.

75. Đặng Thanh Lê, (4/1980), Nguyễn Trãi và đề tài thiên nhiên trong dòng văn học

yêu nước Việt Nam, Tạp chí văn học.

76. Đặng Thanh Lê, (4/1986), Từ một phạm trù triết học về một quan niệm đạo đức

Nho gia đến cảm hứng nghệ thuật "thế sự" trong thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Tạp chí văn học.

77. Đặng Thanh Lê (1/1992), Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối

quan hệ khu vực, Tạp chí văn học.

78. Mai Quốc Liên, (4/1980), "Bình Ngô đại cáo" nhìn về phương diện văn bản và

dịch thuật, Tạp chí văn học.

79. Mai Quốc Liên, (1998), Phê bình và tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

80. I.S. Lisevich, (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trường Đại học sư

phạm Tp. Hồ Chí Minh, Trần đình Sử dịch.

81. Vương Lộc, Kiều Oanh, (1974), Góp vài ý kiến về bản phiên âm "Quốc âm thi

tập", Ngôn ngữ số 2, Hà Nội, Tr. 34 - 41.

82. Nguyễn Lộc, (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ

XIX, Tập II, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

83. Phạm Luận, (4/1980), Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong "Quốc âm thi tập"

84. Phạm Luận (4/1991), Thể loại thơ trong "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi và

thi pháp Việt Nam, Tạp chí văn học.

85. Phạm Luận, Nguyễn Phạm Hùng (3/1997) Một vài nhận xét về mối quan hệ giữa

thể thơ nôm của Nguyễn Trãi với thể thất ngôn luật ở Trung Quốc, Tạp chí khoa

học, trường ĐHKH & NV thuộc ĐHQG Hà Nội. 144

86. Phương Lựu, Trần Đình sử, Lê Ngọc Trà, (1986, 1987), Lí luận văn học, Tập 1,

2, 3, Nxb Giáo dục.

87. Amadu Matamơbâu (Tổng giám đốc Unescô), (12/9/1980) Sự hoàn thành trọn

vẹn của Nguyễn Trãi, Báo văn nghệ số 37.

88. C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I. Lê nin, (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

89. Trần Thanh Mại (1/1965), Ngôn Chí VII. Đọc hai cuốn giảng văn của tổ Văn học

Việt Nam, trưởng Đại học Sư phạm, Tạp chí văn học.

90. Trần Thanh Mại, (9/1962), Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn của

ông, Tập san Nghiên cứu văn học.

91. Đào Tử Minh, (3/1985), Một vài ý kiến về vấn đề phiên âm và chú thích thơ Quốc

âm của nhà đại văn hào Nguyễn Trãi, Văn sử địa số 38, Hà Nội.

92. Hà Thúc Minh, (1998), Nho giáo và văn hóa phương đông - những vấn đề lý

luận và thực tiễn trong qua trình đổi mới, Nxb Đà Nẵng.

93. Lê Hoài Nam, (1994), Thơ cổ điển Việt Nam, Một số vấn đề về hình thức và thể

loại, TLBD thường xuyên chu kỳ 1992 - 1996 cho giáo viên cấp 2 phổ thông, Hà

Nội.

94. Nguyễn Xuân Nam, (3/1987), Nghĩ về cái mới trong thơ, Tạp chí văn học.

95. Phan Hữu Nghệ, (7/1995), Khảo sát, bình chú từ ngữ trong "Bình Ngô đại cáo",

Tạp chí văn học.

96. Lãng Nhân, (1965), Hán văn tinh túy, Sài Gòn.

97. Phan Ngọc, (9/1984), Suy nghĩ về thể loại thơ song thất, Sông Hương số 9.

98. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, (1971), Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể

loại), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

99. Bùi Văn Nguyên, (6/1972), Mấy vấn đề cần được xác minh thêm trong thơ văn

Nguyễn Trãi, Tạp chí văn học.

100. Bùi Văn Nguyên, (9/2/1980), Nguyễn Trãi với mùa xuân, Báo văn nghệ, số 6,7.

101. Bùi Văn Nguyên, (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Chuyên luận, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

102. Bùi Văn Nguyên, (1994), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi. NXB Giáo dục. 145

103. N.I.Nhiculin, (10/1980), Đất nước và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Trãi,

Tham luận đọc tại hội nghị toàn quốc về Nguyễn Trãi, họp tại Hà Nội.

104. Trần Ngọc Ninh, (1973), Nguyễn Trãi. Huyễn thực và sắc không, (Mộc cận) Bách

khoa (Sài Gòn), số 390.

105. Vũ Ngọc Phan, (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

106. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng.

107. Hoàng Phê, (1989), Lôgic ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

108. Hoàng Tuấn Phổ, (3/1967), Góp ý kiến về việc phiên âm và chú giải "Quốc âm

thi tập" của Nguyễn Trãi, Tạp chí văn học.

109. Ngô Văn Phú, (19/7/1980), Cây trúc trong thơ Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ số 29.

110. Vũ Đức Phúc, (5/1980), Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn

của ông, Tạp chí văn học.

111. Phan Diễm Phương, (4/1994), Đi tìm ngọn nguồn của cặp thất ngôn trong thể thơ

song thất lục bát, Tạp chí văn học.

112. G.N. Pospêlov, (1985), "Dẫn luận nghiên cứu văn học", Nxb Giáo dục, Hà Nội,

Tr. 115.

113. Lê Quán, (3/1972), Vài nhận xét về phụ âm đầu tiếng Việt cổ qua cấu tạo chữ

nôm, Ngôn ngữ .

114. Lê Văn Quán, (1997), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Giáo dục.

115. Mộng Bình Sơn, (1996), Ảnh hưởng của kinh dịch trong văn học và cuộc sống,

Nxb Văn học.

116. Nguyễn Hữu Sơn, (1985), Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Văn

nghệ Nghĩa Bình, số Xuân.

117. Nguyễn Hữu Sơn, (3/1987), Góp phần tìm hiểu hình thức câu thơ lục ngôn trong

thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tạp chí văn học.

118. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục.

119. Trần Đình Sử, (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu Nxb Giáo dục, Hà Nội. 146

120. Trần Đình sử, (1996), Thi pháp học hiện đại, Lí luận và phê bình văn học, Tập

tiểu luận, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

121. Trần Đình Sử, (1993), "Tùng" - một bài thơ tâm huyết cửa Nguyễn Trãi -Thơ cổ

điển Việt Nam, một số vấn đề về hình thức và thể loại, (Lê Hoài Nam), Bộ Giáo

dục và Đào tạo.

122. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, (1958), Sơ thảo lịch sử văn

học Việt Nam, Quyển 2, Nxb văn sử địa, Hà Nội.

123. Hoài Thanh, (17/1 1/1979), Vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ nôm, Báo

Văn nghệ.

124. Lã Nhâm Thìn, (1997, tái bản 1998), Thơ Nôm Đường luật. Nxb Giáo dục.

125. Thơ văn Lý Trần, (1977, 1989, 1978), Tập I, II, III, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

126. Đoàn Thiện Thuật, (1980), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

127. Nguyễn Khánh Toàn, (4/1980), Nguyễn Trãi nhà văn và anh hùng dân tộc, Tạp

chí Văn học.

128. Trả lời cụ Đào Duy Anh về việc phiên âm thơ nôm và dịch thơ chữ Hán của

Nguyễn Trãi, (7/8/1970), Tác phẩm mới, Số 8, Hà Nội, Tr. 106 - 112.

129. Miễn Trai, (2/1969), Vài suy nghĩ thêm về thơ văn Nguyễn Trãi qua thơ văn của

ông, Tạp chí Văn học.

130. Ngọc Trai, (24/5/1980), Một khía cạnh của tâm hồn lớn, Báo Văn nghệ số 21.

131. Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc, (1980), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

132. Nguyễn Trãi toàn tập, (1969, 1976), Viện sử học, Khoa học xã hội, Hà Nội. 799

trang, In lần thứ hai, 864 trang.

133. Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, (1999), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

134. Nguyễn Trãi toàn tập (tân biên), (1999, 2000). Trung tâm nghiên cứu Quốc học

và nhà xuất bản văn học, Tập I, tập II, tập III.

135. Mai Trân, (9/1962), Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, Tập san Nghiên

cứu Văn học.

136. Thơ văn Nguyễn Trãi, (1980), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 147

137. Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc, (1980), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

138. Tri thức trẻ số40, (10/1998), Tr. 22.

139. Tri thức trẻ số34, (4/1998), Tr. 84 - 87.

140. Hoàng Trinh, (5/1991), Thi pháp học và thế giới vi mô của văn học, Tạp chí Văn

học.

141. Hoàng Trinh, (1992), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

142. Cù Đình Tú, (1988), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp.

143. Từ trong di sản, (1981), Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

144. Ức Trai thi tập, in trong Ức Trai di tập Q.VII,IV , Sử học, HV .23, gồm 254 bài thơ

nôm.

145. Đoàn Thị Thu Vân, (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt

Nam thế kỉ X - thế kỷ XIV, Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học.

146. Lê Trí Viễn, (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

147. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê. Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam, (1978),

Lịch sử văn học Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục Hà nội.

148. Lê Trí Viễn, (1998), Những bài giảng văn chọn lọc, Nxb ĐHQG Hà Nội.

149. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn chung,

Nxb GD, Hà Nội.

150. Yveline Ferary, (1998), Vạn xuân, Văn học hiện đại nước ngoài, văn học Pháp,

Nxb Văn học và Sudestasie, Nguyễn Khắc Dương dịch.

151. Swann. C and Williams. R (1983), Literary Theory, Basil blackwell, Oxford, tr.

96, 99.

152. Stauffer. D, The nature of poetry, Newyork, tr. 206.

153. Saussure. P (1978), Course in General linguistie, London, tr. 97.

154. Jakobson. R (1987), Language in Literature, Cambridge.

155. Paul Schneider, (1987), Nguyễn Trãi ét son recueil de poèmes en langue

nationale, Paris. 148

SỐ LƯỢNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN

1. Hoàng Thu Thủy - Nguyễn Minh Tường, (1993), Yêu tố Lão Trang trong Thiền

học Tuệ Trung thượng sĩ, trong Tuệ Trung thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam,

Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm TP. Hồ Chí Minh, trang 134 - 148.

2. Hoàng Thu Thủy, (4/1998), Tâm sự gì ở bài thơ "Góc thành Nam" của Nguyễn

Trãi ? Thông tin khoa học số 19, Đại học Quốc gia, trường Đại học sư phạm

thành phố Hồ Chí Minh, trang 83 - 87.

3. Hoàng Thị Thu Thủy, (11/1999), Trăng trong "Quốc âm thi tập", Tạp chí Khoa

học, số 22, Đại học Quốc gia, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,

trang 66 - 74.

4. Hoàng Thị Thu Thủy, (5/2000), Câu thơ sáu tiếng trong "Quốc âm thi tập", Tạp

chí Khoa học, số 23, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, trang

120 - 129.